AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |
Back to Blog
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (ngành Khoa học Y Dược) và PGS.TS Phạm Tiến Sơn (ngành Toán học) là những người nhận giải thưởng chính. TS. Nguyễn Trương Thanh Hiếu (ngành Vật lý) nhận giải thưởng trẻ. Chiều 18/5, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN Việt Nam 18/5 và Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Năm nay, giải thưởng Tạ Quang Bửu được trao tặng cho 3 nhà khoa học thuộc các ngành Khoa học Y Dược, Toán học và Vật lý. Đó là PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (ngành Khoa học Y Dược), PGS.TS Phạm Tiến Sơn, Trường Đại học Đà Lạt (ngành Toán học) và TS Nguyễn Trương Thanh Hiếu, Trường Đại học Tôn Đức Thắng (ngành Vật lý). Cùng với các nhà khoa học khác, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan đã tiến hành nghiên cứu trên 782 phụ nữ vô sinh không có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), so sánh tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ trẻ sinh sống của chuyển phôi đông lạnh với chuyển phôi tươi.
Kết quả cho thấy, chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương chuyển phôi tươi. Do đó, có thể thực hiện đông lạnh phôi để giảm số phôi chuyển vào buồng tử cung, giảm biến chứng đa thai của thụ tinh trong ống nghiệm. Công trình nghiên cứu của PGS.TS Phạm Tiến Sơn đề cập tới một vấn đề cơ bản của toán học. Đó là bài toán tối ưu nửa đại số: Tìm giá trị nhỏ nhất của một hàm đa thức trên một tập nửa đại số. Đây là bài toán “NP-khó” và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà toán học. Dựa trên một vài ý tưởng của Lý thuyết kỳ dị và sử dụng các công cụ của Hình học nửa đại số, công trình đã chỉ ra tính tổng quát của các bài toán tối ưu nửa đại số. Người thứ 3 đạt giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 là nhà khoa học trẻ Nguyễn Trương Thanh Hiếu. Công trình nghiên cứu của TS Nguyễn Trương Thanh Hiếu đề xuất một phương pháp tổng quát nhằm xác định chính xác quãng đường tự do trung bình không đàn hồi của điện tử năng lượng thấp (dưới 100 eV) trong vật liệu. Tác giả cho thấy, quãng đường tự do trung bình không đàn hồi của điện tử có thể được xác định trong hệ hình thức điện môi với độ chính xác tương đương các tính toán nguyên lý đầu sử dụng phép xấp xỉ GW trong lý thuyết hệ nhiều hạt. Phương pháp được đề xuất là một lựa chọn khác cho việc tính toán thời gian sống của điện tử nóng (một đại lượng quan trọng trong động học điện tử siêu nhanh). Phát biểu tại lễ trao giải, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chúc mừng ngành khoa học, các nhà khoa học được tôn vinh. Đóng góp của các nhà khoa học thời gian qua không chỉ là số lượng các công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí uy tín của thế giới, các giải thưởng, mà còn ở số lượng các sáng kiến hữu ích để góp phần tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống. Phó Thủ tướng tin tưởng rằng, với sự đoàn kết cùng mục tiêu cao cả là đem khoa học phục vụ nhân dân, phục vụ loài người, khoa học, công nghệ sẽ góp phần đưa đất nước và cả thế giới vượt qua được khó khăn, trong đó trực tiếp nhất là đại dịch Covid-19. #3_nhà_khoa_học_nhận_giải_thưởng_Tạ_Quang_Bửu_2020 #Vinmec 3 nhà khoa học nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020 Nguồn: PGS.TS. BS. Vương Thị Ngọc Lan - Hiếm muộn và Sản phụ khoa Vương Thị Ngọc Lan Phó giáo sư dành hơn 20 năm chỉ ra hiệu quả sử dụng phôi đông lạnh PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người làm trong ngành Y
0 Comments
Read More
Back to Blog
(Chinhphu.vn) – Tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm; tăng tỉ lệ phôi sống sau rã đông 99%... là những thành tựu quan trọng, nổi bật nhất mà PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan và các cộng sự thuộc Khoa Y Dược, Đại học Y Dược TPHCM đạt được với công trình nghiên cứu được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: “Công trình nghiên cứu của chúng tôi là công trình nghiên cứu đầu tiên trên thế giới chứng minh việc chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương với chuyển phôi tươi trên bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang”.
Trước đây, trên thế giới thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm luôn luôn phải thực hiện chuyển phôi tươi bởi vì kỹ thuật đông lạnh phôi chưa có hiệu quả. Tuy nhiên, việc chuyển phôi tươi có thể khiến bệnh nhân bị quá kích buồng trứng hoặc nhiều bệnh nhân có thể bị đa thai. Năm 2016, một nhóm nghiên cứu Trung Quốc chứng minh được rằng chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tốt hơn chuyển phôi tươi ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ thực hiện trên nhóm bệnh nhân nhỏ. Công trình nghiên cứu so sánh việc chuyển phôi trữ với chuyển phôi tươi với các bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang của PGS. TS. Vương Thị Ngọc Lan và các cộng sự thuộc Khoa Y Dược, Đại học Y Dược TPHCM được thực hiện trên nhóm bệnh nhân đại trà, giải thích cho bệnh nhân thấy được sự khác biệt giữa của việc chuyển phôi đông lạnh và chuyển phôi tươi. Công trình này khi được công bố trên tạp chí The New England Journal of Medicine (NEJM) đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới, tức là không cần thực hiện chuyển phôi tươi tất cả các bệnh nhân khi đi thụ tinh trong ống nghiệm. “Chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển 1 phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân”, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết. Bên cạnh đó, từ công trình nghiên cứu cũng có thể hướng dẫn cho người bệnh không cần thực hiện chuyển phôi đông lạnh cho tất cả các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm bởi lẽ việc chuyển phôi đông lạnh sẽ làm tăng thêm chí phí và kéo dài hơn thời gian điều trị cho bệnh nhân. Nói về ý nghĩa của công trình, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết, mỗi năm trên thế giới là có khoảng 2 triệu trường hợp có nhu cầu thụ tinh trong ống nghiệm và có khoảng 3 triệu trường hợp thực hiện chuyển phôi. Tại Việt Nam, mỗi năm ước tính có khoảng 30.000 trường hợp thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và 40.000 trường hợp thực hiện chuyển phôi. Vì vậy, việc tìm ra câu trả lời về phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm giúp cho bác sĩ và bệnh nhân có định hướng rõ ràng để việc chuyển phôi được thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Một đóng góp nữa của công trình là việc triển khai thành công kỹ thuật thủy tinh hóa trong thực hiện đông lạnh phôi, đây là một quy trình kỹ thuật khá mới mẻ nâng cao tỉ lệ sống của phôi sau rã đông, cao đến khoảng 99%. Bên cạnh đó, công trình đã xây dựng được đội ngũ thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng một cách chuẩn mực, theo đúng chuẩn quốc tế. PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: “Trong quá trình thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã kết hợp với nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới, chúng tôi còn có đội giám sát an toàn dữ liệu gồm các GS người Hà Lan, người Anh. Quá trình làm việc cùng với đội ngũ quốc tế như vậy đã cải thiện cái chất lượng của nghiên cứu và chúng tôi cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm để có thể triển khai được những công trình nghiên cứu có chất lượng cao, công bố trên những tạp chí quốc tế”. Chia sẻ về những khó khăn trong quá trình nghiên cứu khoa học, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho rằng, khó khăn lớn nhất trong nghiên cứu khoa học là chất lượng nghiên cứu. Khi bắt tay vào nghiên cứu một vấn đề gì đó thì cần đặt ra câu hỏi là phải tổ chức như thế nào cho thật chất lượng. Những vấn đề như kinh phí cho nghiên cứu, nhân sự, quỹ thời gian dành cho nghiên cứu (trường đại học thì có quy định về giờ nghiên cứu)… cũng tạo lên những áp lực khác nhau. “Thêm một khó khăn nữa là sự hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu. Ở Việt Nam, sự hợp tác này cũng chưa thực sự đồng bộ và mang lại hiệu quả. Để theo đuổi được nghiên cứu khoa học, theo tôi có nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất là động lực làm nghiên cứu, một khi mình đã có động lực đủ lớn thì chắc chắn các khó khăn còn lại mình sẽ vượt qua”. PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan chia sẻ. #PGS.TS_Vương_Ngọc_Lan:_Mang_hy_vọng_mới_cho_bệnh_nhân_hiếm_muộn #Vinmec PGS.TS Vương Ngọc Lan: Mang hy vọng mới cho bệnh nhân hiếm muộn Nguồn: https://baochinhphu.vn/Nguoi-totViec-tot/PGSTS-Vuong-Ngoc-Lan-Mang-hy-vong-moi-cho-benh-nhan-hiem-muon/395313.vgp Xem thêm: 3 nhà khoa học nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020
Back to Blog
VietTimes – Ngày hôm nay, 18/5, Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020 được trao cho ba nhà khoa học thuộc các lĩnh vực Y Dược, Toán học và Vật lý. Nhân dịp này, VietTimes đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan, một trong các chuyên khoa đầu ngành về lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm được vinh danh ở hạng mục chính của Giải thưởng. Công trình ý nghĩa hỗ trợ sinh sản cho người hiếm muộn Phóng viên: - Được biết, PGS đã cùng với các cộng sự thực hiện công trình nghiên cứu “So sánh việc chuyển phôi trữ với chuyển phôi tươi ở các phụ nữ không có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm”, được vinh danh ở hạng mục chính của giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020. Xin BS cho biết thêm về công trình đoạt giải năm nay? Thời gian nghiên cứu của công trình mất bao lâu? Ý nghĩa của nó đối với việc hỗ trợ sinh sản cho các gia đình hiếm muộn? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Từ trước đến nay, khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) tạo ra phôi, chuyển phôi tươi thường được thực hiện trong chu kỳ điều trị và số phôi dư có thể được đông lạnh để sử dụng tiếp nếu chuyển phôi tươi thất bại. Vào năm 2011, kết quả chuyển phôi đông lạnh được ghi nhận có vẻ tốt hơn chuyển phôi tươi, từ đó, nhiều trung tâm TTTON trên thế giới chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ và chỉ thực hiện chuyển phôi rã đông cho bệnh nhân. Cách làm này có thể làm kéo dài thời gian điều trị của bệnh nhân, có thể tăng thêm chi phí cho quy trình đông lạnh – rã đông phôi, mà thật ra hiệu quả của phương pháp này cũng chưa được chứng minh và công bố rộng rãi. Hiệu quả của chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh là vấn đề nổi cộm và được tranh luận trong các hội thảo về hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên so sánh hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh với chuyển phôi tươi trên 782 bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang. Nghiên cứu tìm thấy tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh sau khi TTTON là tương đương nhau. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra dữ liệu đáng tin cậy đầu tiên trên thế giới về hiệu quả của hai phương pháp chuyển phôi. Nghiên cứu có ảnh hưởng lớn và góp phần điều chỉnh phác đồ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới hiện nay. Từ câu hỏi lâm sàng “Phương pháp chuyển phôi tươi hay phôi đông lạnh có hiệu quả hơn?”, năm 2014 nhóm nghiên cứu đã hình thành ý tưởng nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu gồm tôi - nghiên cứu viên chính và các thành viên của Bệnh viện Mỹ Đức TPHCM, Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ và Đại học Adelaide (Úc). Các nghiên cứu viên Việt Nam giữ vai trò chính trong xây dựng đề cương nghiên cứu. Sau đó, nhóm nghiên cứu tham khảo ý kiến về phương pháp nghiên cứu của 2 giáo sư chuyên ngành là giáo sư Ben W Mol và giáo sư Robert J Norman ở đại học Adelaide, Australia. Nghiên cứu được bắt đầu tiến hành thu thập dữ liệu từ giữa năm 2015 tại Bệnh viện Mỹ Đức TPHCM. Việc thu thập và theo dõi dữ liệu cho đến kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh của một số lượng lớn phụ nữ điều trị (782 người) hết sức công phu và khó khăn. Trong quá trình thực hiện, dữ liệu nghiên cứu được kiểm tra và giám sát bởi một Ủy ban Giám sát dữ liệu độc lập gồm 3 giáo sư uy tín trên thế giới: GS JLH Evers (chủ biên Tạp chí Human Reproduction, người Hà Lan), GS S Bhattacharya (chủ biên Tạp chí Human Reproduction Open, người Anh), TS E Schuit (Đại học Utrecht, người Hà Lan). Nghiên cứu kết thúc thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu vào cuối năm 2016. Bản thảo đầu tiên của nghiên cứu được gửi cho tạp chí NEJM vào tháng 3/2017 sau 17 lần sửa chữa. Sau 8 tháng, trải qua 4 vòng bình duyệt theo quy trình của tạp chí, nhóm nghiên cứu đã phải trả lời, làm rõ nhiều câu hỏi và phản biện của những người bình duyệt, bổ sung, chỉnh sửa các thông tin tòa soạn yêu cầu... Bản thảo cuối cùng của nghiên cứu được NEJM chấp nhận công bố trên tạp chí này vào tháng 1/2018 (Lan N Vuong, Vinh Q Dang, Tuong M Ho, Bao G Huynh, Duc T Ha, Toan D Pham, Linh K Nguyen, Robert J Norman, Ben W Mol. IVF Transfer of Fresh or Frozen Embryos in Women without Polycystic Ovaries. N Engl J Med 2018;378:137-47). Về ý nghĩa của công trình, hàng năm, trên thế giới có khoảng 2 triệu chu kỳ TTTON và 3 triệu chu kỳ chuyển phôi được thực hiện. Tại Việt Nam, có khoảng 20.000 chu kỳ TTTON và 30.000 chu kỳ chuyển phôi. Kết quả nghiên cứu giúp các bác sĩ và bệnh nhân chọn lựa phương án chuyển phôi phù hợp, giúp tăng hiệu quả, giảm chi phí, biến chứng và thời gian điều trị. Mẹ là tấm gương đạo đức nghề nghiệp Phóng viên - Được biết, PGS vừa giảng dạy tại ĐH Y Dược TP.HCM vừa làm công tác điều trị, xin được hỏi thêm về con đường nghiên cứu và ứng dụng các nghiên cứu khoa học vào thực tế khám, chữa bệnh của BS ra sao? Công trình nghiên cứu của BS có tính ứng dụng rất cao, mang hạnh phúc cho hàng ngàn gia đình hiếm muộn. Vì sao bà lại tâm huyết theo đuổi lĩnh vực này? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Một trong những nhiệm vụ chính của giảng viên ĐH là nghiên cứu khoa học. Câu hỏi nghiên cứu thường xuất phát từ thực tiễn. Hàng ngày làm việc, gặp gỡ, điều trị bệnh nhân, chúng tôi luôn có những câu hỏi lâm sàng như tại sao triệu chứng bệnh diễn tiến như thế, phương pháp nào điều trị hiệu quả hơn,… Tôi bắt đầu nghiên cứu khoa học từ thời sinh viên, công trình luận văn tốt nghiệp ĐH y khoa của tôi là về thiếu máu trong thai kỳ tại TP.HCM. Sau đó, công việc nghiên cứu luôn gắn liền với điều trị và giảng dạy. Tôi có công trình nghiên cứu được công bố trên tạp chí quốc tế chuyên ngành đầu tiên vào năm 2008. Tôi may mắn được tham gia vào nhóm thực hiện TTTON đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1997. Trong quá trình điều trị, chứng kiến những hoàn cảnh, những khó khăn và mong mỏi của bệnh nhân, tôi và các đồng nghiệp luôn cố gắng nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật điều trị sao cho hiệu quả, an toàn nhất để giúp cho các gia đình hiếm muộn có được niềm hạnh phúc như mong muốn. Phóng viên: - May mắn có mẹ ruột như là người thầy và có chồng là đồng nghiệp trong cùng lĩnh vực, xin bà kể thêm về hai nhân vật này. Và xin được hỏi ngoài những đồng cảm, thấu hiểu, liệu có những mâu thuẫn không thể thống nhất khi tranh luận về khoa học trong gia đình? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Mẹ tôi và chồng tôi có vai trò định hướng quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp của tôi. Cho đến hiện tại, những ca điều trị khó, những ý tưởng nghiên cứu, tôi đều thảo luận với mẹ và chồng tôi. Buổi cơm gia đình thường giống như một buổi giao ban bệnh viện vậy. Chắc chắn là luôn có những tranh luận về khoa học trong các cuộc thảo luận, ngay cả là trong gia đình. Theo tôi, đây là điều tốt giúp cho mình có cái nhìn đa chiều về một vấn đề. Thông thường, khi có sự bất đồng ý kiến, tôi lắng nghe các ý kiến của mẹ tôi, của chồng tôi, tôi tranh luận và chưa quyết định ngay. Tôi dành thời gian suy nghĩ cho thấu đáo rồi đưa ra quyết định cuối cùng. Phóng viên: - Liệu có phải những ấn tượng về mẹ và công việc của GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng (nguyên Giám đốc BV Phụ sản Từ Dũ, Viện Tim TP.HCM) đã khiến chị tiếp bước vào ngành y? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: Trước đây, ngay sau ngày đất nước thống nhất, mẹ tôi hầu như ở suốt trong bệnh viện, vừa làm công tác quản lý, vừa điều trị, chăm sóc bệnh nhân. Chị em chúng tôi còn nhỏ, không ai trông nên thường được mẹ đưa theo vào bệnh viện. Có thể nói, tuổi thơ của tôi là ở bệnh viện. Bệnh viện như ngôi nhà thứ 2, các cô chú trong bệnh viện như người thân. Do đó, khi lớn lên, chọn nghề, tôi không thể suy nghĩ đến một nghề nào khác ngoài nghề Y. Mẹ và các công việc của mẹ là tấm gương cho tôi rèn luyện về đạo đức nghề nghiệp. Còn rất nhiều câu hỏi cần tiếp tục trả lời
Phóng viên: - Nghiên cứu khoa học của PGS và cộng sự, như giới chuyên môn nhận định, đã mở ra những hướng mới cho các nhà khoa học Việt Nam và trên thế giới? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Tiếp theo nghiên cứu chính đã công bố về so sánh chuyển phôi trữ và chuyển phôi tươi ở bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh ống nghiệm vào năm 2018, 2 năm qua, chúng tôi đã tiếp tục thực hiện các phân tích thứ cấp để tiếp tục trả lời các câu hỏi chuyên biệt của vấn đề nghiên cứu, như yếu tố nào dùng để quyết định khi nào nên thực hiện kiểu chuyển phôi nào cho từng bệnh nhân cụ thể; so sánh chi phí – hiệu quả của 2 phương pháp chuyển phôi; theo dõi sự phát triển thể chất, tâm thần, vận động của các trẻ sinh ra từ chuyển phôi trữ và chuyển phôi tươi. Các phân tích thứ cấp và nghiên cứu tiếp theo này cũng đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành có chỉ số tác động cao. Ngoài ra, các phân tích thứ cấp này tạo điều kiện cho việc áp dụng kết quả của nghiên cứu chính vào lâm sàng được toàn diện và hiệu quả hơn. Vẫn còn nhiều câu hỏi nghiên cứu liên quan vấn đề phương pháp chuyển phôi như giá trị điểm cắt của biomarker để quyết định chọn lựa phương pháp chuyển phôi; phác đồ hiệu quả trong chuẩn bị nội mạc tử cung cho chuyển phôi trữ; hiệu quả và an toan của chuyển phôi ngày 3 so với ngày 5,… Phóng viên: - Giới trẻ Việt Nam trong ngành Y hiện nay có khó khăn và thuận lợi gì khi làm khoa học thưa PGS? Theo tôi, giới trẻ ngày nay có nhiều thuận lợi trong nghiên cứu khoa học. Họ có những người đi trước tâm huyết, hướng dẫn về phương pháp nghiên cứu; có hội đồng đạo đức xem xét các vấn đề liên quan đến đạo đức nghiên cứu, do đó, các công trình nghiên cứu được tiến hành bài bản, chuẩn mực. Việc tiếp cận các nguồn tài liệu tham khảo, cập nhật các kiến thức, thông tin mới rất dễ dàng. Trình độ ngoại ngữ của các bạn cũng tốt. Phương tiện, trang thiết bị nghiên cứu được đầu tư nhiều. Khó khăn có thể kể là kinh phí nghiên cứu. Để có những công trình mang tính đột phá, kinh phí nghiên cứu là không nhỏ. Do đó, việc có những hỗ trợ từ các tổ chức hay quỹ nghiên cứu khoa học là hết sức quý giá. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) có nguồn tài trợ hàng năm cho các đề tài tiềm năng. Khó khăn của các bạn trẻ còn là sự quyết tâm của bản thân vượt qua các trở ngại, khó khăn trong quá trình nghiên cứu và công bố. Ngoài ra, cân bằng giữa nghiên cứu và cuộc sống, cơm áo gạo tiền, cũng là một thách thức đối với các bạn trẻ làm khoa học. Phóng viên: - Để đạt được thành tựu nói trên, nhà khoa học nữ có còn thời gian giành cho gia đình giữa bộn bề công việc và nghiên cứu khoa học hỗ trợ sinh sản cho hàng ngàn phụ nữ hiếm muộn, thưa PGS? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Tôi nghĩ, về nghiên cứu khoa học, làm khoa học thì nữ cũng như nam thôi, cũng có những trăn trở, suy tư, cũng có những khó khăn, thuận lợi và thách thức cần vượt qua để đi đến đích. Chỉ khác là, đối với nữ, sinh con và nuôi dạy con, chăm sóc gia đình là thiên chức. Việc cân đối thời gian dành cho công việc và gia đình luôn là một thách thức. Thú thật, tôi không thể cân bằng thời gian cho công việc và gia đình. Do đó, tôi nghĩ gia đình tôi đã hỗ trợ, hy sinh cho tôi rất nhiều để tôi toàn tâm toàn ý cho công việc và nghiên cứu. Tôi biết ơn mẹ tôi, chồng tôi và các con tôi vì những chia sẻ và hỗ trợ vô giá đó. Phóng viên: - Đây là năm thứ 2, một nhà khoa học nữ trong lĩnh vực Y sinh Dược học đoạt Giải thưởng Tạ Quang Bửu. Xin PGS cho biết ý nghĩa của Giải thưởng đối với cá nhân bà? PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: - Giáo sư Tạ Quang Bửu là một nhà khoa học lớn của nước ta, là người đã đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam. Giáo sư đã để lại những dấu ấn sâu sắc đối với nền giáo dục và khoa học Việt Nam. Việc nhận giải thưởng mang tên giáo sư Tạ Quang Bửu là vinh dự và niềm tự hào của các nhà khoa học. Những tiêu chí xét chọn của giải thưởng cùng với sự công minh của Hội đồng xét chọn giải thưởng đã càng nâng cao hơn nữa uy tín của giải thưởng này. Giải thưởng thật sự là nguồn động viên lớn lao cho các nhà khoa học, thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ có chất lượng ở Việt Nam. #PGS.TS._Vương_Thị_Ngọc_Lan:_Bữa_cơm_gia_đình_như_họp_giao_ban_Bệnh_viện #Vinmec PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: Bữa cơm gia đình như họp giao ban Bệnh viện Nguồn: https://viettimes.vn/pgs-ts-vuong-thi-ngoc-lan-bua-com-gia-dinh-nhu-cuoc-hop-giao-ban-benh-vien-post131001.html
Back to Blog
Mới đây, một trong 10 công bố quốc tế năm 2018 của PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (Bộ môn Phụ sản - Trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh) đã được đề cử Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Đó là công trình nghiên cứu so sánh phương pháp chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh cho bệnh nhân hiếm muộn không có hội chứng buồng trứng đa nang (IVF transfer of fresh or frozen embryos in women without polycystic ovaries) đăng trên Tạp chí The New England Journal of Medicine (NEJM) năm 2018. Nhân dịp này, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã có cuộc gặp gỡ với PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan để tìm hiểu về ý nghĩa của công trình nghiên cứu này, cũng như những dự định nghiên cứu tiếp theo của chị. Xin chị cho biết ý nghĩa khoa học của công trình được đề cử Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020?
Ở các phụ nữ thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có hội chứng buồng trứng đa nang, chuyển phôi đông lạnh được ghi nhận là cho kết quả có trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, chúng ta chưa biết được liệu chuyển phôi đông lạnh có thể cho kết quả tương tự chuyển phôi tươi ở phụ nữ vô sinh không bị hội chứng đa nang? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi phân bố ngẫu nhiên 782 phụ nữ vô sinh không bị hội chứng buồng trứng đa nang, những người đang được điều trị với chu kỳ IVF đầu tiên hoặc lần thứ hai, để được chuyển phôi đông lạnh hoặc chuyển phôi tươi vào ngày thứ 3 sau IVF. Ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, tất cả phôi độ 1 và 2 đều được đông lạnh, sau đó tối đa 2 phôi sẽ được chọn rã đông và chuyển vào tử cung ở tháng tiếp theo. Ở nhóm chuyển phôi tươi, tối đa 2 phôi tươi sẽ được chọn để chuyển vào tử cung ngay trong chu kỳ kích thích buồng trứng. Kết quả chính là tỷ lệ có thai diễn tiến sau lần chuyển phôi đầu tiên. Sau khi kết thúc chu kỳ điều trị đầu tiên, thai diễn tiến có 142/391 trường hợp (36,3%) ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, và có 135/391 trường hợp (34,5%) ở nhóm chuyển phôi tươi (tỷ số nguy cơ trong nhóm chuyển phôi đông lạnh là 1,05; 95% khoảng tin cậy [CI] 0,87-1,27; p=0,65). Tỷ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên lần lượt là 33,8 và 31,5% (tỷ số nguy cơ 1,07; 95% CI 0,88-1,31). Qua nghiên cứu, chúng tôi có thể kết luận rằng, đối với phụ nữ vô sinh không có hội chứng buồng trứng đa nang, khi thực hiện IVF, chuyển phôi đông lạnh không tăng có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thai diễn tiến và tỷ lệ trẻ sinh sống so với chuyển phôi tươi. Như vậy là chị và nhóm nghiên cứu đã trả lời được câu hỏi đặt ra. Chị có hài lòng với kết quả này không? còn điểm nào cần tiếp tục nghiên cứu? Mục đích của nghiên cứu và công bố khoa học là để ứng dụng vào thực tiễn. Do đó, điều hài lòng nhất của nghiên cứu này là đã trả lời được câu hỏi lâm sàng là nên chuyển phôi tươi hay nên trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi đông lạnh cho bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang. Điều này giúp tăng hiệu quả điều trị, giảm biến chứng, giảm chi phí và thời gian điều trị cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. Thật ra, kết quả nghiên cứu cho thấy cả 2 phương pháp đều có hiệu quả tương đương, vì vậy không nên chỉ áp dụng một kiểu chuyển phôi cho tất cả bệnh nhân mà nên cá thể hóa cho từng cặp vợ chồng. Như vậy, câu hỏi tiếp theo của chúng tôi sau nghiên cứu đó là, vậy thì cá thể hóa như thế nào? Bệnh nhân nào thì phù hợp với chuyển phôi tươi và ai sẽ phù hợp với chuyển phôi đông lạnh? Yếu tố nào giúp bác sĩ lâm sàng dựa trên đó để ra quyết định kiểu chuyển phôi cho một bệnh nhân cụ thể? Để trả lời tất cả những câu hỏi đó, chúng tôi đã tiếp tục tiến hành phân tích thứ cấp dữ liệu của nghiên cứu đó và ghi nhận nồng độ progesterone tăng là yếu tố quyết định nên thực hiện chuyển phôi đông lạnh, nồng độ progesterone thấp thì nên chuyển phôi tươi. Phân tích thứ cấp này cũng đã được công bố trên Tạp chí chuyên ngành là Reproductive BioMedicine Online vào tháng 12/2018. Ngoài ra, chúng tôi cũng thực hiện nghiên cứu so sánh chi phí - hiệu quả của 2 kỹ thuật chuyển phôi, để tìm xem kỹ thuật chuyển phôi nào có hiệu quả cao mà chi phí thấp hơn. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy chuyển phôi đông lạnh có chi phí - hiệu quả không tốt hơn chuyển phôi tươi. Nghiên cứu về chi phí - hiệu quả cũng được nhóm chúng tôi công bố trên Tạp chí chuyên ngành là Human Reproduction vào tháng 6/2018. Hướng nghiên cứu trong tương lai vẫn tiếp tục xoay quanh vấn đề chuyển phôi này như: giá trị điểm cắt nào của progesterone giúp đưa ra quyết định chuyển phôi tươi hay đông lạnh và nên thực hiện nuôi cấy phôi 3 ngày hay 5 ngày, hiệu quả thế nào và chi phí - hiệu quả thế nào? Nhìn chung, vẫn còn nhiều câu hỏi mở ra sau nghiên cứu chính đã được công bố trên NEJM. Thực tế, nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới vẫn đang tiếp tục nghiên cứu với cùng chủ đề của nhóm chúng tôi và chúng tôi đã đồng thuận chia sẻ số liệu để có một số liệu lớn chung toàn thế giới nhằm rút ra những kết luận xác đáng cho vấn đề này. Trong thời đại hiện nay, liên kết, hợp tác và chia sẻ là hết sức quan trọng để giảm thiểu nguồn lực cần đầu tư cho nghiên cứu và phục vụ cho ứng dụng thực tiễn kịp thời, hiệu quả. Trên thế giới có khoảng 10 nhóm nghiên cứu cùng thực hiện so sánh hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh với chuyển phôi tươi ở bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của chị đã về đích sớm nhất. Chị có thể chia sẻ một số ưu thế của nhóm dẫn đến thành công này? Lợi thế của nhóm nghiên cứu Việt Nam là việc thu thập dữ liệu nhanh chóng. Ngoài ra, với sự hỗ trợ của 2 giáo sư đến từ Viện Nghiên cứu hàng đầu ở Úc (GS Robert Norman và GS Ben Mol), nhóm nghiên cứu của chúng tôi được tổ chức chuyên nghiệp và chuẩn mực. Chúng tôi có chế độ theo dõi nghiên cứu và báo cáo định kỳ sát sao, do đó giải quyết kịp thời các vấn đề khó khăn phát sinh trong quá trình triển khai nghiên cứu. Để có những kết quả nghiên cứu ấn tượng như ngày hôm nay, chắc chắn chị đã phải đầu tư rất lớn cho quỹ thời gian nghiên cứu của mình. Là một nhà khoa học nữ, chị đã phân bổ thời gian làm công tác điều trị lâm sàng ở bệnh viện với thời gian nghiên cứu khoa học như thế nào? Khi mình đã xác định nghiên cứu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, phải thực hiện thì việc đầu tư thời gian cho nó là điều chắc chắn. Cũng không có một sự phân bổ thời gian kiểu như là mấy phần cho nghiên cứu, mấy phần cho điều trị…, bởi vì câu hỏi nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn điều trị và ngược lại, kết quả nghiên cứu được ứng dụng để điều trị được tốt hơn. Nghiên cứu giúp cho mình hiểu vấn đề điều trị một cách sâu sắc hơn và tự tin hơn trong điều trị. Nói một cách vui vui là nghiên cứu và điều trị như là làm đẹp và phụ nữ vậy. Phụ nữ thì thích làm đẹp và làm đẹp vì mình là phụ nữ. Cả hai không thể tách rời nhau. Theo chị, công bố khoa học có phải là phương cách đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học một cách hiệu quả nhất không? Còn cần những yếu tố gì nữa để có thể đánh giá khách quan một công trình nghiên cứu? Công bố khoa học, đặc biệt trên các tạp chí có chỉ số tác động cao, chỉ minh chứng cho chất lượng, tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu và phương pháp tiến hành nghiên cứu chuẩn mực, còn để đánh giá một nghiên cứu có hiệu quả hay không thì cần xem kết quả của nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn thì giúp ích được điều gì. Nghiên cứu xong mà đem cất vào tủ là những nghiên cứu không hiệu quả, tốn kém nguồn lực. Ngoài ra, nghiên cứu khách quan là phải có tính lặp lại được, chứ không thể nói là nghiên cứu này chỉ có một mình mình làm được, không ai khác làm được nữa, như vậy có vẻ đó chỉ là một biến cố xảy ra tình cờ do cơ hội mà không phải là nghiên cứu lâm sàng và phục vụ cho điều trị lâm sàng. #PGS.TS_Vương_Thị_Ngọc_Lan:_Nghiên_cứu_và_điều_trị_không_thể_tách_rời_nhau #Vinmec PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu và điều trị không thể tách rời nhau Nguồn: https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3113/-pgs-ts-vuong-thi-ngoc-lan--nghien-cuu-va-dieu-tri-khong-the-tach-roi-nhau.aspx
Back to Blog
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan là nhà khoa học nữ thứ hai và cũng là đại diện thứ hai của ngành y sinh được vinh danh trong giải thưởng sáng giá nhất của khoa học Việt Nam. Từ giấc mơ khoác áo blouse trắng Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cả bố lẫn mẹ đều làm trong ngành y, từ nhỏ bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan (con gái của GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Nguyên Giám đốc BV Từ Dũ) đã nuôi dưỡng ước mơ được khoác trên mình chiếc áo blouse trắng. Năm 1997, sau khi tốt nghiệp thủ khoa trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, chị tình nguyện đến BV Từ Dũ để phụ giúp mẹ những công việc lặt vặt. Đúng thời điểm này, đoàn chuyên gia từ Pháp sang Việt Nam để hỗ trợ thực hiện những ca thụ tinh ống nghiệm đầu tiên (IVF). Nhờ sự chỉnh chu, tỉ mẩn và thận trọng trong công việc, chị vinh dự trở thành một trong những bác sĩ Việt Nam đầu tiên được tham gia vào ê kíp thực hiện thụ tinh ống nghiệm. Bác sĩ Ngọc Lan nhớ lại, trong lần thụ tinh ống nghiệm ấy, 1 trong 3 em bé đầu tiên đã được đặt tên là Phạm Tường Lan Thy, dựa theo tên của chị và bác sĩ Hồ Mạnh Tường (thành viên thứ 2 trong ê kíp và cũng là chồng chị sau này) như một sự biết ơn, tri ân của đôi vợ chồng trẻ. “Chứng kiến mỗi gia đình vỡ òa hạnh phúc đón con vào lòng, tôi và đồng nghiệp đều không ngăn được xúc động. Đó cũng là động lực để tôi tiếp tục nỗ lực, hỗ trợ những đôi vợ chồng hiếm muộn hoàn thành ước nguyện sinh con”- BS Ngọc Lan chia sẻ. Tâm huyết là thế, tuy nhiên trong thời gian đầu kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đậu thai thụ tinh ống nghiệm tại Việt Nam còn rất thấp khiến chị và đồng nghiệp luôn luôn trăn trở. "Nhìn cảnh các cặp vợ chồng hi vọng rồi thất vọng, thậm chí nhiều gia đình tan vỡ sau quá nhiều lần thụ tinh ống nghiệm không thành công, tim tôi như thắt lại, đau xót vì chưa giúp được họ như tâm nguyện. Mỗi lần như vậy, tôi và các bác sĩ khác tại Khoa Hiếm muộn - BV Từ Dũ không buông tay mà nỗ lực hơn nữa, dần dần đã nâng tỷ lệ này lên 20%, 30%, rồi 40%... Những nụ cười đã nhân lên gấp nhiều lần và trọn vẹn hơn trước…”, chị xúc động nói. Trong 20 năm qua, cặp vợ chồng bác sĩ Ngọc Lan - Mạnh Tường đã điều trị trực tiếp cho hơn 20.000 cặp vợ chồng hiếm muộn. Cũng vì thế mà BS Ngọc Lan được nhiều người gọi bằng cái tên thân thương là “bà mẹ trẻ của ngàn đứa con”. Từ những nỗ lực và thành quả đã đạt được, tên tuổi của thụ tinh ống nghiệm Việt Nam dần được quốc tế công nhận, bác sĩ Ngọc Lan và bác sĩ Hồ Mạnh Tường được mời đi nhiều hội thảo quốc tế báo cáo về những kết quả của thụ tinh ống nghiệm Việt Nam. …đến Giải chính Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020 Với tham vọng đưa tên tuổi của IVF Việt Nam đứng ngang hàng với các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Pháp, bác sĩ Ngọc Lan đã lên ý tưởng và thực hiện nghiên cứu, so sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ đông trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Sau 4 năm dày công nghiên cứu, năm 2018, công trình nghiên cứu mang tên “So sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ đông trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm” đã được đăng tải trên Tạp chí Y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) - một trong những tạp chí y khoa có uy tín và có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới hiện nay. Mỗi tuần có hàng ngàn bài báo trên khắp thế giới được gửi về tạp chí và phải trải qua nhiều vòng đánh giá, sàng lọc, phản biện. Chỉ 5% tổng số bài gửi về là được xuất bản. Vì vậy, đây là sự kiện gây nên tiếng vang lớn, bởi là lần đầu tiên, một nghiên cứu do người Việt Nam chủ trì được đăng trên tạp chí này. Bác sĩ Lan cho biết, khi mới bắt đầu làm thụ tinh ống nghiệm, mỗi lần thụ tinh sẽ cho khoảng 5-7 phôi. Lúc đó kỹ thuật đông lạnh phôi chưa phát triển nên các bác sĩ trên thế giới tiến hành chuyển phôi tươi. Nếu sử dụng số phôi quá ít thì tỉ lệ có thai sẽ không cao, do đó các bác sĩ chuyển tăng số phôi tươi vào buồng tử cung cho bệnh nhân, tỉ lệ thành công tăng lên, nhưng đồng nghĩa với nguy cơ đa thai cũng cao hơn. Cho đến khi kỹ thuật đông lạnh hoàn chỉnh, nhiều trung tâm trên thế giới nhận thấy kỹ thuật này giúp tăng tỉ lệ mang thai nên không thực hiện chuyển phôi tươi nữa mà đông lạnh toàn bộ số phôi có được và chuyển phôi rã đông sau đó. Thế nhưng, việc dùng phôi đông lạnh vô tình kéo dài thêm thời gian chờ đợi của các cặp vợ chồng, chi phí cũng tăng theo. Nhóm của bác sĩ Lan đã nghiên cứu ngẫu nhiên 782 phụ nữ vô sinh (không do buồng trứng đa nang) đang thụ tinh ống nghiệm. Kết quả cho thấy, việc chuyển phôi đông lạnh mang lại kết quả thành công tương đương như chuyển phôi tươi khi thụ tinh ống nghiệm. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên trên thế giới chứng minh việc chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương với chuyển phôi tươi trên bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang. Công trình này khi được công bố trên tạp chí NEJM đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. “Chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển 1 phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân”, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết. Mỗi năm trên thế giới là có khoảng 2 triệu trường hợp có nhu cầu thụ tinh trong ống nghiệm và có khoảng 3 triệu trường hợp thực hiện chuyển phôi. Tại Việt Nam, mỗi năm ước tính có khoảng 30.000 trường hợp thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và 40.000 trường hợp thực hiện chuyển phôi. Vì vậy, công trình này giúp các cặp vợ chồng xác định kiểu chuyển phôi nào để tăng hiệu quả, giảm biến chứng, chi phí và thời gian điều trị. Một đóng góp nữa của công trình là triển khai thành công kỹ thuật thủy tinh hóa trong thực hiện đông lạnh phôi, đây là một quy trình kỹ thuật khá mới mẻ nâng cao tỉ lệ sống của phôi sau rã đông, cao đến khoảng 99%. Bên cạnh đó, công trình đã xây dựng được đội ngũ thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng một cách chuẩn mực, theo đúng chuẩn quốc tế. Đây cũng là một trong ba công trình nghiên cứu được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Với kết quả này, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan đã trở thành nhà khoa học nữ thứ hai và cũng là đại diện thứ hai của ngành y sinh được vinh danh trong giải thưởng sáng giá nhất của khoa học Việt Nam.
Ươm mầm hạnh phúc Từ năm 2014, nhóm các bác sĩ tâm huyết như GS.Nguyễn Thị Ngọc Phượng, bác sĩ Hồ Mạnh Tường, bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan và một số bác sĩ của Bệnh viện Mỹ Đức đã sáng lập chương trình “Ươm mầm hạnh phúc” với mong muốn hỗ trợ những gia đình hiếm muộn tìm con không tắt hy vọng. Theo đó, mỗi năm đã có từ 30-60 cặp vợ chồng có hoàn cảnh khó khăn được lựa chọn để thực hiện thụ tinh ống nghiệm hoàn toàn miễn phí. Đặc biệt, toàn bộ các ca thụ tinh ống nghiệm này đều được chính tay bác sĩ Lan đích thân thực hiện từ khâu chọc hút trứng, thụ tinh, trữ đông đến cấy phôi. Trong gần 6 năm qua, đã có hàng trăm cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn được chọn và đã có hơn 90 em bé chào đời từ chương trình này. Với bác sĩ Ngọc Lan, điều này đồng nghĩa với việc càng nhiều mái nhà có thêm tiếng khóc cười trẻ thơ, niềm hạnh phúc vì thế cũng sẽ trọn vẹn hơn. “Đó cũng chính là động lực để chúng tôi tiếp tục thắp sáng hy vọng cho những người phụ nữ khát khao thiên chức làm mẹ…”, chị hạnh phúc chia sẻ. #PGS.TS_Vương_Ngọc_Lan:_Thắp_hy_vọng_cho_những_phụ_nữ_khát_khao_làm_mẹ #Vinmec PGS.TS Vương Ngọc Lan: Thắp hy vọng cho những phụ nữ khát khao làm mẹ Nguồn: https://www.hoilhpn.org.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/pgs-ts-vuong-ngoc-lan-thap-hy-vong-cho-nhung-phu-nu-khat-khao-lam-me-34035-101.html Xem thêm: PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu và điều trị không thể tách rời nhau PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: Bữa cơm gia đình như họp giao ban Bệnh viện PGS.TS Vương Ngọc Lan: Mang hy vọng mới cho bệnh nhân hiếm muộn 3 nhà khoa học nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020
Back to Blog
Người mẹ của nghìn con8/14/2021 Đầu năm 2018, một thông tin làm nức lòng giới y học VN khi tạp chí y khoa nổi tiếng nhất thế giới New England Journal of Medicine (NEJM) đăng kết quả nghiên cứu của nhóm bác sĩ VN về thụ tinh trong ống nghiệm. Chủ trì dự án là TS-BS Vương Thị Ngọc Lan (bộ môn phụ sản Trường ĐH Y Dược TP.HCM), người đã dành cả tuổi trẻ cho con đường nghiên cứu y khoa và giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Nhân dịp này, Thanh Niên đã có cuộc phỏng vấn TS-BS Lan. Những ngày vừa qua như thế nào đối với chị khi kết quả nghiên cứu được ghi nhận bằng bài đăng trên NEJM? Cả tập thể rất vui mừng, bất ngờ với sự đón nhận của mọi người cũng như truyền thông trên thế giới và ở VN. Nhưng mọi người đã khép lại chuyện này để bắt đầu những công trình mới, câu hỏi nghiên cứu mới. Hiện tại, cả nhóm đang triển khai một nghiên cứu có tầm cỡ như vậy ngay từ ngày 15.1. Việc này có xáo động nhiều đến cuộc sống, công việc của chị không? Nghiên cứu khoa học (NCKH) là thiết yếu với người làm khoa học nói chung, ngành y nói riêng. NCKH là phải làm nên không thể tổ chức như thời vụ, chạy theo chỉ tiêu. Nếu chạy theo chỉ tiêu, sẽ khó có công trình hiệu quả, đem lại tiếng vang lớn. Phải tổ chức như công việc hằng ngày. Nên thành công vừa qua không ảnh hưởng gì lớn với tôi. Tôi vẫn song hành vừa học vừa làm vừa nghiên cứu như từ trước tới nay. Điều gì vui nhất với chị trong thành công vừa qua, thưa chị? Đồng nghiệp chia sẻ đương nhiên là vui mừng. Bạn bè trên thế giới cũng cập nhật, chúc mừng rất nhiều. Tôi xúc động là có những đồng nghiệp, thầy cô thấu hiểu hành trình gian nan thế nào mới đi đến thành quả như vậy. Đây là niềm tự hào chung của mọi người chứ không phải chỉ của riêng nhóm nghiên cứu nữa. Bước ra nước ngoài, họ sẽ không biết mình làm ở đâu. Họ chỉ biết mình là nhóm ở VN thôi. Họ nói VN lên một mặt bằng mới của việc NCKH. Đăng bài lên NEJM, mới thấy mình như người lãnh nhiệm vụ tiên phong, biết đường đi nước bước giúp đỡ nhóm khác. Đó cũng là động lực để người khác tự tin đăng lên những tạp chí lớn như vậy. Vì ở VN có nhiều người không tự tin. Nhưng không đi thử sao biết mình có làm được hay không? Ít nhất hãy nghĩ mình có thể làm được. Cứ cố gắng thì có ngày có kết quả.
Điều tôi cảm thấy vui nhất là đã xây dựng được đội ngũ nghiên cứu một cách chuyên nghiệp. Nhóm có nhiều người, mỗi người làm một công việc khác nhau ở bệnh viện. Khi làm dự án nào, mỗi người phụ trách một khâu nghiên cứu, ai biết việc người đó để việc hằng ngày không bị ảnh hưởng. Khi có ý tưởng nghiên cứu, sẽ đưa ra thảo luận trong nhóm, sau đó phân công người viết đề cương, triển khai nhận mẫu, phân tích số liệu, viết bài báo cáo... Qua nghiên cứu vừa rồi, chúng tôi đã xây dựng được một đội ngũ làm việc ăn ý từ ý tưởng đến khi công bố. Ngoài ra, cũng có một nhóm chuyên phụ trách nghiên cứu: theo dõi, báo cáo tiến độ, xem có trục trặc, khó khăn gì. Vì một nghiên cứu có chất lượng thường có thời gian kéo dài 2 - 3 năm. Thời gian này thường có nhiều yếu tố bên ngoài tác động. Phải có một nhóm chuyên theo dõi, cập nhật tiến độ nghiên cứu. Vậy, có điều gì khiến chị cảm thấy chạnh lòng không? Cũng có. Tôi cũng nghe nhiều người nói nghiên cứu này có phát minh ra điều gì mới đâu. Nhưng nghiên cứu không nhất định tìm ra, phát minh gì vĩ đại. Nhiệm vụ chính của nghiên cứu là ứng dụng. Đôi khi mình suy nghĩ cái gì cao siêu như đỡ đẻ trên mặt trăng... Có thể tìm ra được gì đó nhưng giá trị ứng dụng giúp cho bệnh nhân, cải thiện công việc thì cần suy nghĩ là có hay không. Đương nhiên cũng có ý kiến khác nữa. Một vấn đề có nhiều quan điểm. Cũng có thể chấp nhận. Đôi khi mình học từ những lời phê bình, góp ý, sai lầm nhiều hơn là học từ thành công. Đào tạo các bạn trẻ, tôi luôn nói đừng nghĩ nghiên cứu là gì phức tạp, vĩ đại, không thể nào làm được, dành cho những người cao cấp. Nó rất bình thường, như công việc hằng ngày, như hơi thở của mình. #Người_mẹ_của_nghìn_con #Vinmec Người mẹ của nghìn con Nguồn: https://thanhnien.vn/doi-song/nguoi-me-cua-nghin-con-935888.html Xem thêm: PGS.TS Vương Ngọc Lan: Thắp hy vọng cho những phụ nữ khát khao làm mẹ PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu và điều trị không thể tách rời nhau PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: Bữa cơm gia đình như họp giao ban Bệnh viện PGS.TS Vương Ngọc Lan: Mang hy vọng mới cho bệnh nhân hiếm muộn
Back to Blog
SKĐS - PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (Ngành Khoa học Y Dược) đã được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020, cùng với 2 nhà khoa học khác thuộc lĩnh vực Toán học và Vật lý. Bộ Khoa học và Công nghệ vừa phê duyệt đề xuất trao tặng Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 cho 3 nhà khoa học được Hội đồng Giải thưởng đề nghị. Đây là giải thưởng được trao cho tác giả của các công trình khoa học xuất sắc được thực hiện tại Việt Nam và công bố trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín. Giải thưởng góp phần thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản nói riêng và khoa học công nghệ Việt Nam nói chung tiếp cận trình độ quốc tế, tạo tiền đề cho khoa học và công nghệ của đất nước hội nhập và phát triển. Ba nhà khoa học được trao giải thưởng lần này gồm: PGS.TS Phạm Tiến Sơn, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan và TS. Nguyễn Trương Thanh Hiếu. Trong đó, hai nhà khoa học: PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và PGS.TS. Phạm Tiến Sơn - Trường Đại học Đà Lạt được trao Giải thưởng dành cho nhà khoa học là tác giả của công trình khoa học xuất sắc. Cụ thể: PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (ngành Khoa học Y Dược) là tác giả của công trình: Lan N. Vuong, Vinh Q. Dang, Tuong M. Ho, Bao G. Huynh, Duc T. Ha, Toan D. Pham, Linh K. Nguyen, Robert J. Norman and Ben W. Mol, 2018. IVF transfer of Fresh or Frozen embryos in women without Polycystic Ovaries. The New England Journal of Medicine, 378(2): 137-147. PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) được biết đến là một Bác sĩ y khoa, Tiến sĩ y học và là một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm. Bà là người đã giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Năm 1998 bà đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya vì công trình thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam. PGS.TS Phạm Tiến Sơn (ngành Toán học) là tác giả của công trình: Gue Myung Lee and Tien Son Pham, 2017. Generic properties for semialgebraic programs. SIAM Journal on Optimization, Vol. 27, No. 3, 2061-2084. TS. Nguyễn Trương Thanh Hiếu - Trường Đại học Tôn Đức Thắng (ngành Vật lý) được trao Giải thưởng dành cho nhà khoa học trẻ là tác giả của công trình khoa học xuất sắc, với công trình: Nguyen Truong Thanh Hieu, 2016. Low-energy electron inelastic mean free path in materials. Applied Physics Letters, Vol. 108, 172901. Dự kiến, lễ trao giải thưởng sẽ được tổ chức vào dịp kỷ niệm ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5 tại Hà Nội.
Đây sẽ là năm thứ 7 Bộ Khoa học và Công nghệ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu cho những nhà khoa học có thành tích xuất sắc. Năm nay, 8 đề cử giải thưởng, đặc biệt là giải chính, đều được đánh giá là có chất lượng công trình ở mức tốt. Trước đó, ngày 29/4, Hội đồng Giải thưởng đã họp xem xét, đánh giá, lựa chọn các nhà khoa học được các Hội đồng khoa học chuyên ngành trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên và kỹ thuật của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đề xuất người nhận giải trong 8 đề cử cho Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Theo Bộ KH-CN, các đề cử Giải thưởng năm nay ghi nhận sự đa dạng của các đơn vị nghiên cứu đến từ các khu vực miền Bắc (Hà Nội), miền Trung (Đà Nẵng), miền Nam (TP.HCM) và khu vực Tây Nguyên (Đà Lạt). Điều này cho thấy phát triển đồng đều của khoa học Việt Nam tại các vùng miền trên cả nước, ngoài hai trung tâm khoa học lớn là Hà Nội và TP.HCM. Các công trình đều là kết quả nghiên cứu khoa học nổi bật trong các chuyên ngành, được thực hiện tại Việt Nam, công bố trên các tạp chí quốc tế xuất sắc, tiếp cận các hướng nghiên cứu mới trên thế giới. Kết thúc phiên họp, Hội đồng đã chọn ba nhà khoa học nêu trên, đề nghị Bộ trưởng Bộ KH-CN trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. #Nữ_bác_sĩ_đầu_ngành_về_thụ_tinh_trong_ống_nghiệm_được_trao_Giải_thưởng_Tạ_Quang_Bửu #Vinmec Nữ bác sĩ đầu ngành về thụ tinh trong ống nghiệm được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu Nguồn: https://suckhoedoisong.vn/nu-bac-si-dau-nganh-ve-thu-tinh-trong-ong-nghiem-duoc-trao-giai-thuong-ta-quang-buu-n173842.html
Back to Blog
Cùng với các cộng sự thực hiện công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế “So sánh việc chuyển phôi trữ với chuyển phôi tươi ở các phụ nữ không có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm” – PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan được vinh danh ở hạng mục chính của giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020. Cuộc trò chuyện trước thềm lễ trao giải, hóa ra lại là một buổi tâm tình về cuộc sống, công việc và hạnh phúc của một nhà khoa học bận rộn… LIÊN KẾT QUỐC TẾ TẠO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHUNG CHO NHÂN LOẠI Chúc mừng PGS Ngọc Lan. Xin bắt đầu bằng một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc: công trình này của chị có ý nghĩa như thế nào với nền y học thế giới nói chung và nền y học Việt Nam nói riêng? PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Đối với nền y học thế giới, nghiên cứu này góp thêm một nghiên cứu chất lượng để trả lời các vấn đề thực hành lâm sàng y khoa. Đối với nền y học Việt Nam, nghiên cứu này được công bố trên tạp chí y khoa hàng đầu New England Journal of Medicine cho thấy đội ngũ nghiên cứu Việt Nam hoàn toan có đủ năng lực thực hiện nghiên cứu với phẩm chất khoa học cao, đóng góp vào kho tàng dữ liệu của y học thế giới. Còn với ngành y học sinh sản mà chị theo đuổi thì sao? Nghiên cứu góp phần giải quyết vấn đề thời sự và tranh luận trong ngành hỗ trợ sinh sản. Hiện nay, mỗi năm trên thế giới có hơn 2 triệu trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Sau khi TTTON tạo ra phôi, chuyển phôi tươi thường được thực hiện trong chu kỳ điều trị và số phôi dư có thể được đông lạnh để sử dụng tiếp nếu chuyển phôi tươi thất bại. Vào năm 2011, kết quả chuyển phôi đông lạnh được ghi nhận có vẻ tốt hơn chuyển phôi tươi, từ đó, nhiều trung tâm thụ tinh ống nghiệm trên thế giới chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ và chỉ thực hiện chuyển phôi rã đông cho bệnh nhân. Cách làm này có thể làm kéo dài thời gian điều trị của bệnh nhân, có thể tăng thêm chi phí cho quy trình đông lạnh – rã đông phôi mà thật ra hiệu quả của phương pháp này cũng chưa được chứng minh và công bố rộng rãi. Hiệu quả của chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh là vấn đề nổi cộm và được tranh luận nhiều trong các hội thảo về hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Ý nghĩa khoa học của nghiên cứu tập trung vào 4 điểm chính: (1) Nghiên cứu chứng minh được chuyển phôi đông lạnh hiệu quả và an toàn như chuyển phôi tươi, do đó, các cặp vợ chồng điều trị TTTON không cần chuyển nhiều phôi tươi một lúc mà có thể giảm số phôi chuyển xuống, số còn dư được đông lạnh để sử dụng sau đó, tránh việc phải kích thích buồng trứng trở lại nếu thất bại; (2) Trữ phôi và giảm số phôi chuyển vào buồng tử cung, giúp giảm tỉ lệ đa thai, từ đó, hạn chế các biến chứng thai kỳ cho mẹ và con, cải thiện sức khỏe của trẻ sinh ra từ TTTON; (3) Các phụ nữ điều trị TTTON có nguy cơ quá kích buồng trứng, có thể thực hiện đông lạnh phôi toàn bộ, sau đó thực hiện chuyển phôi rã đông, sẽ giúp giảm biến chứng quá kích buồng trứng; (4) Cả 2 phương pháp chuyển phôi đều hiệu quả như nhau, do đó, các bác sĩ không nên chuyển sang thực hiện chuyển phôi đông lạnh cho tất cả bệnh nhân vì sẽ làm kéo dài thời gian từ lúc bắt đầu điều trị đến có thai và tăng chi phí của bệnh nhân. ĐỊNH NGHĨA VỀ HẠNH PHÚC Có một nghiên cứu của nhóm chuyên gia tâm lý học Hà Lan, nói rằng “có những đứa trẻ không được hỏi ý kiến trước khi được sinh ra”. Những gì chị đang làm, có bao giờ bị nghĩ lại là “đi ngược lại quy luật tự nhiên” không ạ?Đây là các vấn đề liên quan đến đạo đức (ethics) của chuyên ngành Y học sinh sản. Các vấn đề đạo đức trong Y học sinh sản luôn luôn là vấn đề được tranh luận nhiều nhất, xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng nhất. Người ta bàn về quyền của đứa trẻ muốn được ra đời hay không, quyền của cặp vợ chồng như thế nào, quyền sở hữu noãn, tinh trùng, phôi trong các tình huống cụ thể,… rất rất nhiều vấn đề, vì đây là chuyên ngành tạo ra con người. Điển hình là GS. Robert G Edwards, cha đẻ của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, công trình thành công tạo ra em bé TTTON đầu tiên trên thế giới của ông vào năm 1978 nhưng mãi đến năm 2010, ông mới nhận được giải Nobel Y học. Có thể nói đây là giải Nobel Y học được chờ đợi lâu nhất, bởi vì các nhà khoa học đã theo dõi, chờ đợi đến khi em bé này thể hiện đầy đủ chức năng của một con người bình thường, đó là chức năng sinh sản tự nhiên (cô bé TTTON đầu tiên đó lập gia đình, thụ thai tự nhiên và sinh con bình thường). Khá buồn là đến lúc nhận giải, GS. RG Edwards đã yếu đến mức không còn nhận biết là mình được trao giải và ông mất vài năm sau đó. Trong thực hành hỗ trợ sinh sản, mỗi kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đều được cân nhắc, xem xét ở nhiều khía cạnh và nhiều góc nhìn khác nhau bởi Hội đồng Đạo đức. Do vậy, tôi chú trọng hơn đến khía cạnh khoa học và tính nhân văn của kỹ thuật. Khía cạnh đạo đức là một vấn đề rất rộng, có nhiều chuyên gia xem xét, phản biện. Chúng tôi, những người làm việc trong lĩnh vực này, luôn luôn tuân thủ các chuẩn mực, quy định và chịu sự điều chỉnh của Hội đồng đạo đức. Báo chí hay gọi chị là “bà mẹ của nghìn con”, và nói rằng chị đã mang lại hạnh phúc cho hàng nghìn gia đình. Vậy chị có đang hạnh phúc không? Thật ra, tôi nghĩ, công việc của mình thì mình làm, mình làm tốt nhất để có kết quả tốt nhất, điều trị thành công cho nhiều bệnh nhân nhất. Còn nhiều ngành nghề khác, mỗi người cũng đều làm tốt nhất công việc của mình, có những công việc rất thầm lặng,… Do đó, được gọi là “bà mẹ của nghìn con” là một sự ưu ái mà mọi người dành cho tôi. Tôi rất hạnh phúc và cảm ơn vì điều này. Chị định nghĩa “hạnh phúc” như thế nào ạ? Hạnh phúc là mang lại hạnh phúc cho người khác. Một ngày điển hình của chị sẽ diễn ra như thế nào ạ? Buổi sáng tôi bắt đầu từ 7 giờ làm công việc sản phụ khoa, giảng dạy lâm sàng cho sinh viên, học viên sau đại học; buổi trưa làm thụ tinh trong ống nghiệm; buổi chiều tôi tham gia công việc quản lý ở trường, dạy lý thuyết trên giảng đường (nếu có giờ giảng), đọc tài liệu, soạn bài giảng, viết bài nghiên cứu; buổi chiều muộn, tôi khám ngoài giờ. Tôi về nhà khoảng 7 giờ tối. Cả nhà cùng ăn cơm tối, tôi nói chuyện và xem chuyện học hành của con đến khoảng 10 giờ. Thông thường, khoảng thời gian sau 10 giờ tối và sáng sớm là lúc tôi suy nghĩ, đọc về các đề tài nghiên cứu, viết bài báo, trả lời email,… Là một người phải đảm nhiệm quá nhiều vai trò trong cuộc sống và gánh vác nhiều kỳ vọng xã hội, có bao giờ chị bị mệt mỏi và hết năng lượng không? Nếu có, cách nào giúp chị vượt qua những giai đoạn này? Có chứ, trong cuộc sống, không ai tránh khỏi những lúc cảm thấy mệt mỏi và hết năng lượng về mặt tinh thần. Cách tôi giải quyết là cố gắng không suy nghĩ về điều đó nữa, ngủ một giấc, tự động viên “Ngày mai sẽ là một ngày mới”. Đôi khi có những việc không đơn giản, tôi chia sẻ với người thân (gia đình hay đồng nghiệp) để có người lắng nghe và góp ý cho mình, Chị luôn được nhắc đến trên truyền thông với hai cái tên đi kèm: mẹ và chồng, cũng đều là các chuyên gia đầu ngành trong cùng lĩnh vực. Sự ảnh hưởng của hai nhân vật này, với chị, là như thế nào? Gia đình tôi khá đặc biệt, tôi không ở gần ba tôi từ khi rất nhỏ. Tôi lớn lên hầu như chỉ có mẹ. Khi tôi còn nhỏ, mẹ vừa là mẹ, vừa là ba của tôi. Mẹ tôi rất bận rộn, lo cho công việc của bệnh viện, điều trị bệnh nhân, giảng dạy sinh viên, tham gia công tác chính trị, xã hội, đoàn thể,…không có nhiều thời gian cho gia đình. Chị em chúng tôi (3 chị em gái) được mẹ huấn luyện từ nhỏ về tính tự lập, suy nghĩ mạnh mẽ, nghị lực và bản lĩnh vượt khó. Khi tôi vào trường Y, mẹ tôi là người thầy của tôi. Tôi chứng kiến những hy sinh của mẹ cho nghề nghiệp, thương yêu bệnh nhân, những lần quyết liệt cứu bệnh nhân nặng bằng mọi giá,… Tôi vẫn nhớ mẹ nói với tôi: “Phải cố gắng cứu sống người phụ nữ này vì không thể để cho những đứa trẻ mất mẹ, nhất là con gái lớn lên mà không có mẹ bên cạnh thì rất khổ. Mà muốn cứu được bệnh nhân, điều trị tốt nhất cho bệnh nhân thì mình phải giỏi chuyên môn, đó là điều tiên quyết và mình phải có tấm lòng”. Hiện nay, mẹ tôi đã về hưu, mẹ giúp tôi chăm sóc, dạy dỗ con cái. Tôi nghĩ mình có nhiều đặc điểm về tính cách giống mẹ. Tôi may mắn có chồng làm cùng lĩnh vực. Chồng tôi cùng suy nghĩ, chia sẻ và hỗ trợ cho định hướng phát triển của tôi. Ngoài ra, chồng tôi cũng không nề hà việc chăm sóc con cái khi tôi bận rộn. Hiện nay, có những trường hợp điều trị khó khăn hay có những hướng phát triển, nghiên cứu, tôi thường chia sẻ với mẹ và chồng để lắng nghe những ý kiến và định hướng của họ. Tôi biết ơn gia đình tôi vì tôi hy sinh cho công việc bao nhiêu thì mẹ tôi, chồng tôi và các con tôi cũng hy sinh cho tôi bấy nhiêu. Nếu không phải là PGS Ngọc Lan của ngành y học sinh sản, thì chị sẽ có thể là nhân vật như thế nào? Là một bác sĩ, giảng viên về sản phụ khoa yêu nghề, yêu bệnh nhân, yêu học trò, không bỏ cuộc trước khó khăn và luôn học hỏi, nghiên cứu để tiến bộ. Thời gian riêng tư, không liên quan đến công việc, gia đình, mà chỉ là của cá nhân chị, chị thích làm gì nhất? Đọc truyện tiểu thuyết. Tôi thường “tự thưởng” cho mình thời gian đọc một quyển tiểu thuyết sau khi hoàn thành một chuyến công tác, thường đây là thời gian tôi ngồi trên máy bay trở về nhà sau một chuyến công tác. Chị có tin vào phép màu không? Tôi không tin vào phép màu bởi vì theo tôi, bất cứ hiện tượng, sự việc nào xảy ra cũng có nền tảng, cơ sở của nó. Ví dụ, không thể là một người giỏi nếu không học, không nghiên cứu. Không thể khỏi bệnh nếu không điều trị bệnh hay không có cơ chế phục hồi bệnh. Chị có tin vào tâm linh không? Điều gì xảy ra mà mình chưa hiểu rõ, chưa giải thích được thì thường tin vào tâm linh. Tôi cũng thỉnh thoảng như vậy. Chị thường đọc sách, xem phim và nghe nhạc gì? Về sách đọc giải trí, tôi thích quyển Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell. Tôi thích nhân vật nữ Scarlett O’Hara, một cô gái đầy nữ tính nhưng cũng đầy sức mạnh, tinh thần lạc quan, tìm mọi cách sống sót qua chiến tranh và vượt lên cuộc sống khó khăn thời hậu chiến. Lúc còn nhỏ, tôi đọc đi đọc lại, làm dấu những đoạn mình thích để khi muốn đọc, mở sách ngay đúng đoạn mình thích để đọc thôi. Về phim, tôi thích phim Collateral beauty, đạo diễn người Mỹ, David Frankel. Phim có những chi tiết vừa thực, vừa ảo, xoay quanh những thứ mật thiết nhất của một con người, đó là, Tình yêu, Thời gian và Cái chết. Cái cách mà người đàn ông vượt qua biến cố đau thương của mình, tìm lại tình yêu cuộc sống thông qua ba người bạn “Tình yêu – Thời gian – Cái chết” rất đáng suy ngẫm. Về bài hát, tùy theo thời gian mà tôi nghĩ đến hay thích bài hát nào nhất. Lúc này, tôi thích bài hát “Mẹ tôi” của nhạc sĩ Trần Tiến. “Mẹ ơi, thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình”. CHUẨN BỊ MỘT THẾ HỆ NHÀ KHOA HỌC KẾ THỪA Nếu lập một bản đồ y học sinh sản thế giới, Việt Nam đang ở vị trí như thế nào so với các quốc gia khác ạ? Tôi tự tin với những gì cộng đồng các chuyên gia IVF Việt Nam đã, đang và sẽ làm, Việt Nam ở vị trí khá cao, trong tốp đầu của khu vực và thuộc về tốp 50% trên của thế giới. Thế hệ học trò của chị đang phát triển ra sao? Đã có ngôi sao nào mới lộ diện chưa? Thế hệ học trò của tôi rất tiềm năng. So với tôi cùng thời gian, các bạn bây giờ giỏi hơn. Các bạn có nhiều điều kiện hơn, tiến xa hơn nhưng chắc chắn kỳ vọng đối với các bạn cũng nhiều hơn.
Tôi có đội ngũ kế thừa ở nhiều thế hệ, lứa quanh 40 tuổi, lứa quanh 30 tuổi. Các bạn có chuyên môn giỏi, hoàn toàn có thể thay thế tôi. Về nghiên cứu khoa học, có những bạn cũng đã có những công bố quốc tế trên các tạp chí y khoa có chỉ số tác động cao, có những báo cáo khoa học tại các diễn đàn khoa học quan trọng trong khu vực và thế giới. Có thể xem các bạn như là đồng nghiệp và đồng đội của tôi. Tôi có cả một bầu trời ngôi sao. Tôi tránh dùng từ “ngôi sao” để chỉ riêng một cá nhân nào ở đây vì TTTON là công việc mà tập thể đóng vai trò quan trọng. Thụ tinh trong ống nghiệm có nhiều công đoạn và mỗi công đoạn đều quan trọng như nhau trong việc đưa đến thành công. Tôi ví quy trình TTTON như là một sợi dây xích, đứt ở một mắt xích nào thì cả sợi dây đều không thể sử dụng được. Nghiên cứu khoa học cũng vậy, không ai có thể làm nghiên cứu một mình. Các công trình và các giải thưởng là thành tích chung của một tập thể. Tôi cảm ơn các đồng nghiệp đã đồng hành với mình để làm tốt nhất công việc điều trị và nghiên cứu. Chị hình dung 10 năm nữa, 20 năm nữa, ngành y học sinh sản của Việt Nam sẽ thế nào? Có 2 kịch bản: (1) Nếu chúng ta tiếp tục làm tốt như hiện tại và phát huy hơn nữa, vừa điều trị tốt cho bệnh nhân, vừa nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế; thực hiện nhiều hơn nữa các nghiên cứu cơ bản; tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, chắc chắn ngành Y học sinh sản của Việt Nam sẽ là một trường phái mạnh trên thế giới, được giới khoa học quốc tế nể trọng; (2) Hiện nay, có một số đơn vị điều trị chỉ chú trọng thu hút bệnh nhân, chất lượng điều trị thấp, đôi khi không tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong ngành Y học sinh sản,… nếu theo chiều hướng này, chúng ta có thể bị đi xuống, đánh giá thấp trong giới khoa học quốc tế. Tôi nghĩ “dựng lá cờ lên đã khó, giữ lá cờ bay càng khó hơn”. Ý thức được như vậy, các chuyên gia trong cộng đồng IVF Việt Nam rất quyết tâm để đưa ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam đi theo chiều hướng 1. Chúng tôi tổ chức nhiều buổi hội nghị, hội thảo, thông qua nhiều kênh để đưa các thông tin về các kỹ thuật điều trị đúng đắn, các nghiên cứu khoa học chất lượng đến cộng đồng, gồm cả giới khoa học, người dân và bệnh nhân. Câu nói thường nói nhất của chị với các cộng sự / học trò là gì? Trong công việc và trong cuộc sống có khác nhau không? Hành trình quan trọng hơn đích đến. Trong công việc và cuộc sống đều như nhau, những điều mình học được và làm cho mình giỏi hơn đều chính từ hành trình tìm tòi, nghiên cứu, hơn là thành tựu mình đạt được. Có những khi, hành trình rất nhiều gian nan, vất vả, lo âu nhưng cũng đi kèm với niềm vui và luôn để lại dấu ấn khó quên cho mỗi người. Cảm ơn PGS TS Vương Thị Ngọc Lan rất nhiều. #PGS.TS_Vương_Thị_Ngọc_Lan:_Muốn_là_“Một_phụ_nữ_tràn_đầy_tình_yêu_thương” #Vinmec PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Muốn là “Một phụ nữ tràn đầy tình yêu thương” Nguồn: https://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/pgsts-vuong-thi-ngoc-lan-muon-la-mot-phu-nu-tran-day-tinh-yeu-thuong/2020051410418349p1c160.htm
Back to Blog
PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 1996, Thạc sĩ Phôi học lâm sàng tại Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS) năm 1999, Bác sĩ nội trú sản phụ khoa năm 2003 và Tiến sĩ Y học chuyên ngành Sản Phụ khoa tại Đại học Y Dược TP. HCM năm 2016 và được phong học hàm Phó giáo sư năm 2019. Hiện nay, PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan là Trưởng Bộ môn Phụ Sản và là Phó trưởng Khoa Y, Đại học Y Dược TP.HCM. PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan đã có hơn 30 bài báo trên tạp chí ISI với tổng số gần 600 lượt trích dẫn và chỉ số trích dẫn (H-index) là 12 (theo Google Scholar, tháng 5/2020). Hiện nay, PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan và cộng sự đang xây dựng nhóm nghiên cứu chuyên sâu về Y học sinh sản, hướng đến mục tiêu trở thành một trong những nhóm nghiên cứu hàng đầu châu Á trong lĩnh vực này.
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Lan N. Vuong, Vinh Q. Dang, Tuong M. Ho, Bao G. Huynh, Duc T. Ha, Toan D. Pham, Linh K. Nguyen, Robert J. Norman and Ben W. Mol, 2018. IVF transfer of Fresh or Frozen embryos in women without Polycystic Ovaries. The New England Journal of Medicine, 378(2): 137-147. Nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu trên 782 phụ nữ vô sinh không có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), so sánh tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ trẻ sinh sống của chuyển phôi đông lạnh với chuyển phôi tươi. Kết quả cho thấy chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương chuyển phôi tươi, do đó, có thể thực hiện đông lạnh phôi để giảm số phôi chuyển vào buồng tử cung, giảm biến chứng đa thai của thụ tinh trong ống nghiệm. #PGS.TS._VƯƠNG_THỊ_NGỌC_LAN_Giải_thưởng_Tạ_Quang_Bửu #Vinmec PGS.TS. VƯƠNG THỊ NGỌC LAN – Giải thưởng Tạ Quang Bửu Nguồn: https://taquangbuuprize.nafosted.gov.vn/pgs-ts-vuong-thi-ngoc-lan/
Back to Blog
(ĐCSVN) – Với cống hiến to lớn trong nghiên cứu so sánh hiệu quả chuyển phôi đông lạnh và chuyển phôi tươi ở bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan trở thành một trong 3 nhà khoa học xuất sắc được nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020. Chị cũng là người đã giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm Nhằm giải đáp một câu hỏi tồn tại trong quá trình hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan (Trưởng Bộ môn Phụ sản – trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh) và đồng nghiệp ở Bệnh viện Mỹ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh) đã thực hiện nghiên cứu so sánh việc chuyển phôi trữ với chuyển phôi tươi với các bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang và xuất bản nghiên cứu trên tạp chí The New England Journal of Medicine (NEJM). Với công trình này, chị trở thành một trong số ba nhà khoa học được đề cử giải chính Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020.
Chia sẻ về động lực thôi thúc chị và cộng sự bắt tay vào thực hiện công trình, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: Kể từ khi được thực hiện lần đầu tiên thành công trên giới vào năm 1978, việc áp dụng thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) trong hỗ trợ sinh sản đã đi kèm với sự phát triển của nhiều kỹ thuật mới. Trước đây, kỹ thuật đông lạnh phôi chưa tốt, khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, bệnh nhân thường được chuyển phôi tươi và chuyển nhiều phôi cùng lúc đưa đến nguy cơ quá kích buồng trứng và đa thai cho bệnh nhân điều trị. Sau đó, khi kỹ thuật đông lạnh phôi được cải thiện, khi thực hiện TTTON tạo ra phôi, chuyển phôi tươi thường được thực hiện trong chu kỳ điều trị và số phôi dư có thể được đông lạnh để sử dụng tiếp nếu chuyển phôi tươi thất bại. Vào năm 2011, kết quả chuyển phôi đông lạnh được ghi nhận có vẻ tốt hơn chuyển phôi tươi. Từ đó, nhiều trung tâm thụ tinh ống nghiệm trên thế giới đã chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ và chỉ thực hiện chuyển phôi rã đông cho bệnh nhân. Tuy nhiên phương pháp này có thể làm kéo dài thời gian điều trị của bệnh nhân cũng như có thể tăng thêm chi phí cho quy trình đông lạnh – rã đông phôi mà thật ra hiệu quả của nó chưa được chứng minh và công bố rộng rãi. Hiệu quả của chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh là vấn đề nổi cộm và được tranh luận nhiều trong các hội thảo về hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Vì vậy, nhóm nghiên cứu của chị đã thực hiện nghiên cứu so sánh hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh với chuyển phôi tươi ở bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang. Ước tính cả thế giới mỗi năm có hơn hai triệu cặp vợ chồng thực hiện TTTON và có gần ba triệu lượt chuyển phôi đông lạnh. Ở Việt Nam hiện nay mỗi năm có hơn 30.000 cặp vợ chồng thực hiện TTTON và gần 40.000 trường hợp chuyển phôi đông lạnh. Kết quả của nghiên cứu của công trình trên đã góp phần làm vào thay đổi thực hành trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản trên thế giới và ở Việt Nam. Để có được thành công trên, nhóm nghiên cứu đã gặp không ít khó khăn. “Cả nhóm nghiên cứu chia nhau để liên hệ với bệnh nhân, cập nhật kết quả khám và sinh của toàn bộ các lần khám thai trong suốt 9 tháng thai kỳ và kết cục sinh em bé. Do đó hoàn thành việc thu thập dữ liệu nghiên cứu trên 800 bệnh nhân là một nỗ lực lớn của nhóm nghiên cứu”, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết. Cũng theo PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan, khó khăn gặp phải lớn nhất là nghiên cứu thực hiện trên một số lượng lớn bệnh nhân, gần 800 bệnh nhân và phải theo dõi tất cả bệnh nhân trong một khoảng thời gian dài từ khi bắt đầu điều trị cho đến khi sinh em bé. Toàn bộ quá trình khám thai, theo dõi các biến chứng trong thai kỳ và kết cục sinh của em bé cần phải được ghi nhận trong khi không phải tất cả bệnh nhân đều sống tại TP.Hồ Chí Minh hay khám và theo dõi thai tại bệnh viện Mỹ Đức. Không chỉ thành công ở công trình trên, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan còn được biết đến là một Bác sĩ y khoa, Tiến sĩ y học và là một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm. Chị là người đã giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Năm 1998, chị đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya vì công trình thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam. Khiêm tốn khi nói về những thành công trong cuộc đời làm nghiên cứu của mình, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan cho hay: Nhiệm vụ của một nhà khoa học và của một nhóm nghiên cứu là phải có công bố khoa học. Với lĩnh vực nghiên cứu, kết quả của những công bố khoa học có thể là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo hoặc được ứng dụng để cải thiện hiệu quả điều trị. “Tôi may mắn được làm việc cùng một nhóm nghiên cứu được tổ chức một cách chuyên nghiệp, tuân theo các chuẩn mực khoa học, làm việc có chất lượng và đầy nhiệt huyết. Muốn duy trì được khả năng công bố khoa học đều đặn, chúng tôi cũng phải hoàn thiện kỹ năng làm việc nhóm, sự phối hợp đồng bộ, làm đúng vai trò, trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm”, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan chia sẻ. #_Nữ_bác_sĩ_mang_lại_niềm_vui_cho_nhiều_gia_đình #Vinmec Nữ bác sĩ mang lại niềm vui cho nhiều gia đình Nguồn: https://dangcongsan.vn/tien-toi-dai-hoi-dang-bo-cac-cap-va-dai-hoi-xiii-cua-dang/phong-trao-thi-dua-chao-mung-dai-hoi-dang-bo-cac-cap-tien-toi-dai-hoi-xiii-cua-dang/nu-bac-si-mang-lai-niem-vui-cho-nhieu-gia-dinh-554636.html Xem thêm: PGS.TS. VƯƠNG THỊ NGỌC LAN – Giải thưởng Tạ Quang Bửu PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Muốn là “Một phụ nữ tràn đầy tình yêu thương” Nữ bác sĩ đầu ngành về thụ tinh trong ống nghiệm được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu Người mẹ của nghìn con
Back to Blog
Chia sẻ của nữ tiến sĩ, bác sĩ Việt về nghiên cứu gây tiếng vang trong giới y học thế giới8/14/2021 Đầu năm 2018, thông tin nghiên cứu của nhóm bác sĩ Việt Nam về thụ tinh trong ống nghiệm được đăng trên tạp chí y khoa nổi tiếng nhất thế giới New England Journal of Medicine (NEJM) đã làm nức lòng giới y học nước nhà.Nghiên cứu “khá chấn động” của người Việt Tạp chí Y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) là một trong những tạp chí y khoa có uy tín và có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay trên thế giới. Trước đây cũng từng có những người Việt có bài nghiên cứu được đăng tạp chí này nhưng đây là lần đầu tiên chủ trì dự án nghiên cứu là người Việt Nam. Nhóm nghiên cứu về so sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) gồm 9 người trong đó tiến sĩ-bác sĩ (TS-BS) Vương Thị Ngọc Lan, bộ môn phụ sản Trường ĐH Y Dược TP.HCM là người chủ trì. Chia sẻ về kết quả nghiên cứu này, TS-BS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: “Trên thế giới có hai phương án chuyển phôi thụ tinh ống nghiệm (TTON). Đó là chuyển phôi tươi vào tử cung hoặc đông lạnh phôi trước, sau đó mới chuyển phôi sau rã đông vào tử cung. Nghe qua thì nhiều người tưởng chừng khó nhưng đó là việc rất bình thường vì kỹ thuật chuyển phôi tươi hay kỹ thuật trữ phôi đông lạnh đã được thực hiện từ lâu. Nhưng vấn đề là phương pháp nào hiệu quả hơn, chi phí ít, biến chứng thấp, thời gian có thai nhanh hơn thì chưa ai có câu trả lời thỏa đáng hết. Do đó, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đi tìm câu trả lời khi nghiên cứu so sánh hai phương pháp điều trị cho vấn đề này”. Hành trình 4 năm nghiên cứu TS-BS Vương Thị Ngọc Lan cho biết, NEJM là một tạp chí khoa học có chỉ số trích dẫn và tầm ảnh hưởng cao nhất trên toàn thế giới, đồng thời chưa có tạp chí khoa học nào khó đến mức như NEJM. BS Lan chia sẻ: “Nghiên cứu khoa học trong ngành y ai cũng mong muốn một lần xuất hiện bài báo trên tạp chí này. Bởi yêu cầu để được đăng bài trên tạp chí này cũng không dễ dàng chút nào. Họ chỉ chọn đăng những nghiên cứu thật sự có giá trị, không phải là một phát minh mới mà giá trị ở đây chính là tìm ra một phác đồ điều trị mang lại ích lợi cho bệnh nhân và có thể thay đổi thực hành của chuyên ngành đó trên thế giới, có tầm ảnh hưởng lớn”. Bên cạnh đó, tạp chí này cũng đòi hỏi cách làm nghiên cứu thông qua thiết kế, phân tích số liệu trong bài báo phải chỉnh chu, chặt chẽ, tuân thủ đúng quy cách. Theo như thông báo của tạp chí NEJM về cách chọn đăng bài, chỉ 1-5% tổng số bài gửi về là được xuất bản. Mỗi tuần có hàng ngàn bài báo trên khắp thế giới được gửi về và phải trải qua nhiều vòng đánh giá, sàng lọc, phản biện…”. Theo trưởng nhóm nghiên cứu, con đường để được đăng bài trên tạp chí được xem là “thánh đường” của giới y khoa của nhóm cũng rất chông gai. “Những tạp chí khoa học uy tín khác thường chỉ sửa chừng 3 lần là có thể đăng. Tuy nhiên, bài báo này chúng tôi phải sửa... 17 lần”, BS Lan cho biết. Trải qua khoảng bốn năm trong đó gần hai năm để nhóm thu thập số liệu, 11 tháng để phân tích số liệu và viết bài. Sau 10 tháng gửi thì bài được đăng trên NEJM vào ngày 11/1/2018. Bà Lan chia sẻ, tháng 3/2017, nhóm nghiên cứu nộp bài lên NEJM thì 2 tháng sau tạp chí gửi bản nhận xét phản biện, nhiều đến mức nhóm phải giải đáp… 20 trang A4. Nhóm mất 2 tháng mới có thể trả lời. Sau khi được chấp nhận, nhóm lại phải làm việc với biên tập tới 3 lần, qua 2 bản thảo sau đó mới được đăng. Tất cả từ ngữ chuyên ngành được NEJM biên tập lại để làm sao cho người trong ngành y nhưng không phải chuyên ngành phụ sản và người ngoài ngành có thể hiểu được.
“Mình đi qua hết con đường chông gai, khó khăn, khi đến đích cảm giác lâng lâng, mà nghĩ lại cả nhóm cũng không biết sao mình may mắn đến vậy”, TS-BS Lan nói. GS Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) từng đánh giá: “Đây là thành tựu đáng tự hào và cũng là một minh chứng rằng Việt Nam có thể làm những nghiên cứu chất lượng rất cao”. #Chia_sẻ_của_nữ_tiến_sĩ,_bác_sĩ_Việt_về_nghiên_cứu_gây_tiếng_vang_trong_giới_y_học_thế_giới #Vinmec Chia sẻ của nữ tiến sĩ, bác sĩ Việt về nghiên cứu gây tiếng vang trong giới y học thế giới Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/chia-se-cua-nu-tien-si-bac-si-viet-ve-nghien-cuu-gay-tieng-vang-trong-gioi-y-hoc-the-gioi-20180227215100839.htm Xem thêm: Nữ bác sĩ mang lại niềm vui cho nhiều gia đình PGS.TS. VƯƠNG THỊ NGỌC LAN – Giải thưởng Tạ Quang Bửu PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Muốn là “Một phụ nữ tràn đầy tình yêu thương” Nữ bác sĩ đầu ngành về thụ tinh trong ống nghiệm được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu
Back to Blog
GD&TĐ - PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) - Trưởng bộ môn Sản - Khoa Y - Trường ĐH Y Dược TPHCM - được biết đến là chuyên gia hàng đầu về thụ tinh trong ống nghiệm (TTON).
Đề tài NCKH “Về chuyển phôi tươi so với chuyển đông lạnh cho bệnh nhân TTON” từng công bố trên tạp chí The New England Journal of Medicine (NEJM) năm 2018 của chị vừa được đề cử nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Góp phần đưa Việt Nam vào bản đồ TTON thế giới Nói về thành tựu của đề tài nghiên cứu vừa được đề cử nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu, BS Ngọc Lan vui mừng chia sẻ: Tôi nghĩ thành tựu lớn nhất là cùng các đồng nghiệp tìm ra phác đồ, kỹ thuật điều trị mới, hiệu quả để giúp chữa trị cho bệnh nhân. Nghiên cứu “Về chuyển phôi tươi so với chuyển đông lạnh cho bệnh nhân TTON” của giảng viên - bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan có ý nghĩa rất lớn. Bởi mỗi trường hợp đều được đặt ra câu hỏi nên chuyển phôi tươi hay trữ đông lạnh rồi sau đó mới rã đông để chuyển. Nhiều chuyên gia trên thế giới vẫn đang loay hoay đi tìm lời giải nên chọn phương pháp nào sẽ hiệu quả. Trước đây, các trung tâm có xu hướng chuyển phôi tươi nhưng sau đó một số báo cáo cho thấy tỷ lệ có thai giảm. Một số nơi có xu hướng chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ để hy vọng cải thiện kết quả. Tuy nhiên, việc đông lạnh phôi toàn bộ lại làm tăng chi phí và làm trì hoãn cơ hội có thai của người bệnh thêm vài tháng. Từ nghiên cứu của giảng viên - bác sĩ Ngọc Lan và cộng sự, nhóm bệnh nhân hiếm muộn (không thuộc nhóm hội chứng buồng trứng đa nang) có tỷ lệ thai sống cao tương đương khi sử dụng phôi đông lạnh. Đây cũng là thông tin quan trọng đối với phụ nữ hiếm muộn trên thế giới. Phát hiện này có thể khuyến khích các bác sĩ chỉ cấy một phôi mỗi lần, giúp giảm nguy cơ dẫn đến đa thai và các biến chứng liên quan khi cấy nhiều phôi cùng lúc. Công trình nghiên cứu “Về chuyển phôi tươi so với chuyển đông lạnh cho bệnh nhân TTON” là một hành trình dài hơn 3 năm từ khi thai nghén ý tưởng nghiên cứu, triển khai. Trong hành trình khó quên đó, chị và nhóm nghiên cứu đã học được rất nhiều từ cách làm việc chuyên nghiệp của GS ở các viện nghiên cứu tại Australia, cũng như những khó khăn nhóm phải trải qua. Vì thế, sau 17 lần chỉnh sửa bản thảo nội bộ, 5 lần chỉnh sửa với biên tập của tạp chí NEJM, công trình nghiên cứu mới được đăng tải vào tháng 1/2018. Sự kiện này đánh dấu thành tựu y khoa Việt Nam lên bản đồ TTON của thế giới một cách ngoạn mục. Biết ơn đồng nghiệp, gia đình Bác sĩ Ngọc Lan, một trong những thành viên của ê-kíp thực hiện TTON đầu tiên của Việt Nam vào năm 1997. Thời gian đầu thực hiện kỹ thuật này, tỷ lệ thành công thấp và chỉ thực hiện được kỹ thuật cơ bản nhất. Trong khi đó, nhu cầu và mong đợi của bệnh nhân thì lớn. Từ thực tế này, nhiều năm qua chị và các cộng sự quyết tâm nghiên cứu để tăng cơ hội thành công trong điều trị, thực hiện được nhiều kỹ thuật điều trị khác nhau nhằm giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận của bệnh nhân. Theo bác sĩ Lan, vấn đề khó khăn nhất trong NCKH ở Việt Nam, nhất là nghiên cứu cơ bản là phương tiện, trang thiết bị và kinh phí cho nghiên cứu. Chị và cộng sự đồng thời cần nhiều thời gian để đọc, tìm hiểu, phân tích vấn đề và lập kế hoạch. Có lúc, chị ước một ngày của mình có hơn 24 giờ sẽ tốt biết bao. Tuy vậy, thời gian vẫn là 24 giờ hiện hữu và chị, ngoài nhiệm vụ NCKH, còn tham gia giảng dạy, quản lý và chăm sóc gia đình. Việc nào cũng quan trọng nhưng chị đã tròn vai một cách xuất sắc. #Giảng_viên_bác_sĩ_Vương_Thị_Ngọc_Lan:_Ước_một_ngày_có_hơn_24_giờ #Vinmec Giảng viên - bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan: Ước một ngày có hơn 24 giờ Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/ket-noi/giang-vien-bac-si-vuong-thi-ngoc-lan-uoc-mot-ngay-co-hon-24-gio-20200411082629180.html
Back to Blog
5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á8/14/2021 Các nhà khoa học trong danh sách của tạp chí Asian Scientist đều có thành tích trong lĩnh vực, đạt giải thưởng lớn trong nước hoặc quốc tế. Tạp chí khoa học Asian Scientist (Singapore) công bố danh sách 100 nhà khoa học có thành tựu nghiên cứu những vấn đề cấp bách về biến đổi khí hậu, đại dịch Covid-19, có thành tích trong phát hiện khoa học hoặc là người dẫn đầu trong lĩnh vực đó.
5 nhà khoa học Việt Nam xuất sắc lọt vào top 100 châu Á năm nay gồm PGS.TS Trần Thị Thu Hà (Đại học Thái Nguyên), PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan (Đại học Y Dược TP HCM), PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai (Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương), PGS.TS Phạm Tiến Sơn (Đại học Đà Lạt), TS Nguyễn Trương Thanh Hiếu (Đại học Tôn Đức Thắng). PGS.TS Trần Thị Thu Hà tập trung nghiên cứu về nhân giống và thâm canh cây, nhân giống, nuôi trồng các loại cây lâm sản ngoài gỗ và dược liệu, phát triển cây thuốc địa phương. Bà được trao Giải thưởng Kovalevskaia Việt Nam 2019. PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan nghiên cứu trong lĩnh vực y sinh, là một trong ba nhà khoa học nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 về so sánh phương pháp chuyển phôi tươi và đông lạnh để thụ tinh ống nghiệm (IVF). Bà có nhiều đóng góp cho nghiên cứu cũng như thực hiện IVF cho hàng nghìn gia đình. PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai người đại diện nhóm nhà khoa học nữ được trao Giải thưởng Kovalevskaia năm 2019 vì phân lập thành công một chủng virus SARS-CoV-2 mới, đưa Việt Nam trở thành một trong 4 quốc gia đầu tiên phân lập thành công virus này. PGS. TS Phạm Tiến Sơn một trong ba nhà khoa học nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 nhờ công trình nghiên cứu về các tính chất tổng quát về quy hoạch nửa đại số trong lĩnh vực toán học. Trong lĩnh vực vật lý, PGS TS Nguyễn Trương Thanh Hiếu là một trong ba nhà khoa học nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 nhờ công trình nghiên cứu về quãng đường tự do trung bình của điện tử năng lượng thấp trong vật liệu. Năm 2021 là năm thứ 6 liên tiếp tạp chí Asian Scientist vinh danh các nhà nghiên cứu xuất sắc ở châu Á, có đóng góp trong nhiều lĩnh vực, từ nông nghiệp, kinh tế, đến vật lý, y học... Việt Nam đã có 15 nhà khoa học được vinh danh trong top các nhà khoa học tiêu biểu của châu Á. #5_nhà_khoa_học_Việt_lọt_top_100_châu_Á #Vinmec 5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á Nguồn: https://www.ninhthuan.gov.vn/chinhquyen/sokhcn/Pages/5-nha-khoa-hoc-Viet-lot-top-100-chau-A.aspx https://www.caobang.gov.vn/ubnd/4/469/77285/783883/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi/5-nha-khoa-hoc-viet-lot-top-100-nha-khoa-hoc-chau-a-co-thanh-tuu-nghien-cuu-nhung-van-de-cap-bac.aspx https://ump.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-tuc/pgstsbs-vuong-thi-ngoc-lan-lot-vao-top-100-nha-khoa-hoc-chau-a/3024 Xem thêm: Giảng viên - bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan: Ước một ngày có hơn 24 giờ Chia sẻ của nữ tiến sĩ, bác sĩ Việt về nghiên cứu gây tiếng vang trong giới y học thế giới Nữ bác sĩ mang lại niềm vui cho nhiều gia đình PGS.TS. VƯƠNG THỊ NGỌC LAN – Giải thưởng Tạ Quang Bửu
Back to Blog
Nhiều năm trước, tôi có xem một bộ phim tài liệu về câu chuyện của một nữ bác sĩ ở Sài Gòn. Hồi đó đất nước mới thống nhất, còn khó khăn đủ bề, nhiều trí thức của thành phố đã chọn ra nước ngoài sinh sống. Chồng bà lúc ấy đang ở bên Pháp, làm thủ tục bảo lãnh cho bà và 3 con của họ sang định cư. Nhưng cuối cùng, người phụ nữ (lúc ấy mới ngoài 30 tuổi) quyết định chọn ở lại Việt Nam. Đó là câu chuyện về GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng. Suốt đời cống hiến cho y học Việt Nam, với những thành quả trong nghiên cứu và thực tiễn, năm 2000, GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Mới đây, tôi được xem hai tấm hình chụp GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng con gái của bà- PGS TS Vương Thị Ngọc Lan tại các Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc 12/2020 và năm 2000. Tìm hiểu thông tin về Vương Thị Ngọc Lan, tôi được biết chị đã tiếp nối một cách xuất sắc sự nghiệp của mẹ. PGS TS BS Vương Thị Ngọc Lan hiện là Quyền Trưởng Khoa Y, kiêm Trưởng Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM. Chị có nhiều công trình khoa học được công bố quốc tế, được ghi nhận đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực của mình. Càng thú vị hơn nữa khi tôi được biết con gái lớn của Ngọc Lan là Lan Nhi, hiện là sinh viên Y khoa, cũng đang bước chân vào lĩnh vực của bà ngoại và cha mẹ. Cuộc trò chuyện với PGS. TS. BS. Vương Thị Ngọc Lan, vì thế, bắt đầu bằng câu hỏi về mẹ của chị, và về tình yêu nước… PV: Chị có thể lấy ví dụ về một đề tài, một vấn đề nghiên cứu mới đây và những kết quả thú vị của nó?
PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu về Nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (In-Vitro Maturation – IVM) là một ví dụ. Năm 1997, khi mới bắt đầu thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In-Vitro Fertilization – IVF) ở Việt Nam, chúng tôi đối diện với 2 vấn đề khó khăn. Một là kinh phí thực hiện IVF, hai là biến chứng liên quan đến kích thích buồng trứng như tình trạng quá kích buồng trứng. Chúng tôi tự hỏi có cách nào làm giảm chi phí điều trị và tránh quá kích buồng trứng cho các bệnh nhân có nguy cơ không? Chúng tôi tìm hiểu và tham quan trung tâm thực hiện IVM đầu tiên ở Nhật. Sau đó, chúng tôi triển khai thực hiện IVM ở Việt Nam. Sự khác nhau giữa Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có kích thích buồng trứng và kỹ thuật IVM như thế này: Bình thường, để làm TTTON, người vợ phải được kích thích buồng trứng, tiêm tổng cộng ít nhất 15 mũi thuốc trở lên và tiêm mỗi ngày trong vòng khoảng 2 tuần (có thể lâu hơn). Trong thời gian này, người vợ phải đến bệnh viện theo hẹn để siêu âm và xét nghiệm máu kiểm tra. Đến khi đạt yêu cầu, người vợ sẽ được hẹn đến bệnh viện để chọc hút trứng. Sau khi kích thích buồng trứng, đa số noãn chọc hút được (khoảng trên 80%) đều ở giai đoạn trưởng thành để thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi. Qui trình từ lúc tiêm thuốc đến khi tạo phôi mất hơn 2 tuần, tiêm nhiều thuốc nội tiết và đi lại nhiều lần. Trong kỹ thuật IVM cải tiến hiện nay, để thực hiện TTTON, người vợ chỉ cần tiêm 2 mũi thuốc liều thấp, sau đó được chọc hút trứng từ những nang nhỏ. Các noãn chọc hút được đều còn non. Các chuyên gia phôi học sẽ tiếp tục nuôi trưởng thành noãn trong 2 ngày, sau đó đa số noãn sẽ phát triển đến giai đoạn trưởng thành và có thể thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi. Với IVM, khi làm TTTON, qui trình từ đầu đến tạo phôi chỉ mất 6 ngày, giảm đến 90% lượng thuốc nội tiết phải tiêm. Chúng tôi đã theo đuổi đề tài IVM này trong suốt 14 năm, kết quả khả quan: Hiện nay, Việt Nam được xem là một trong những quốc gia đi đầu trên thế giới về áp dụng và cải tiến kỹ thuật IVM trong hỗ trợ sinh sản. Các chuyên gia của Việt Nam được mời báo cáo, chia sẻ kinh nghiệm về IVM tại các hội nghị chuyên ngành của thế giới như ESHRE (Hiệp hội Sinh sản người và Phôi học Châu Âu) với khoảng hơn 10.000 đại biểu tham dự hàng năm, ASRM (Hội Y học Sinh sản Hoa kỳ) với khoảng gần 10.000 đại biểu tham dự hàng năm, ASPIRE (HSinh sản Châu Á – Thái Bình Dương) với khoảng 2.000 đại biểu tham dự hàng năm. Chúng tôi đã công bố 8 bài về đề tài IVM trên tạp chí chuyên ngành uy tín (Q1). Chúng tôi mở lớp huấn luyện cho các bác sĩ IVF trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, có cả chuyên gia đến từ Mỹ, Australia… sang học kỹ thuật này. Kết quả của các nghiên cứu và công bố về IVM của Việt Nam đã đóng góp vào việc thay đổi thực hành của thế giới về IVM, cụ thể là trong khuyến cáo mới nhất, công bố năm 2021 của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ về việc áp dụng IVM trong hỗ trợ sinh sản đã sử dụng nhiều dữ liệu từ các công bố khoa học của Việt Nam. Kỹ thuật IVM hiện nay được thực hiện cho nhiều bệnh nhân người Việt Nam với tỉ lệ thành công cao, an toàn, thuận tiện và giảm chi phí cho bệnh nhân. Tóm lại, chùm đề tài nghiên cứu về IVM là minh chứng cho đề tài nghiên cứu khoa học có chất lượng, được công bố trên các tạp chí chuyên ngành uy tín, góp phần làm tăng uy tín cho các nhà khoa học Việt Nam và đặc biệt là nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn cao, giúp điều trị hiệu quả, giảm chi phí, giảm biến chứng của điều trị, mang lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng hiếm muộn tại Việt Nam và trên thế giới. PV: Thưa chị, mẹ của chị, GS. BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng có ảnh hưởng thế nào đối với sự nghiệp của chị? Mới đây, chị và GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng đi dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc, đó là hình ảnh rất đẹp của hai nhà khoa học nữ, hai thế hệ trong một gia đình, và đúng là những người yêu nước… PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Gia đình tôi khá đặc biệt. Tôi không ở gần ba tôi từ khi rất nhỏ. Tôi lớn lên hầu như chỉ có mẹ. Khi tôi còn nhỏ, mẹ vừa là mẹ, vừa là ba của tôi. Mẹ tôi rất bận rộn, lo cho công việc của bệnh viện, điều trị bệnh nhân, giảng dạy sinh viên, tham gia công tác chính trị, xã hội, đoàn thể… không có nhiều thời gian cho gia đình. Chị em chúng tôi (3 chị em gái) được mẹ huấn luyện từ nhỏ về tính tự lập, suy nghĩ mạnh mẽ, nghị lực và bản lĩnh vượt khó. Khi tôi vào trường Y, mẹ tôi là người thầy của tôi. Tôi chứng kiến những hy sinh của mẹ cho nghề nghiệp, thương yêu bệnh nhân, những lần quyết liệt cứu bệnh nhân nặng bằng mọi giá… Tôi vẫn nhớ mẹ nói với tôi: “Phải cố gắng cứu sống người phụ nữ này vì không thể để cho những đứa trẻ mất mẹ, nhất là con gái lớn lên mà không có mẹ bên cạnh thì rất khổ. Mà muốn cứu được bệnh nhân, điều trị tốt nhất cho bệnh nhân thì mình phải giỏi chuyên môn, đó là điều tiên quyết. Và mình phải có tấm lòng”. Hiện nay, mẹ tôi đã về hưu. Mẹ giúp tôi chăm sóc, dạy dỗ con cái. Tôi nghĩ mình có nhiều đặc điểm về tính cách giống mẹ. Mẹ và tôi có kỷ niệm đẹp là 2 lần được dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc cùng nhau, cách nhau 20 năm. Năm 2000, mẹ nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, còn tôi là 1 trong 10 Gương mặt trẻ Việt Nam. Năm 2020, tôi nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu cho Nhà khoa học xuất sắc và mẹ tôi là khách mời tham dự Đại hội. Tôi nghĩ, yêu nước là tự hào về đất nước mình, luôn mong muốn và tìm cách làm cho đất nước mình giàu mạnh hơn. Lòng yêu nước cần được thể hiện bằng những hành động cụ thể, tùy theo khả năng của mình… PV: Được biết chị có được nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín của thế giới. Chị nghĩ như thế nào về tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học với người làm việc trong ngành Y? PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Trước hết, cần nhấn mạnh rằng, nghiên cứu khoa học và công bố khoa học là công việc của một tập thể. Không thể có một nghiên cứu chất lượng, một công bố khoa học tốt nào mà chỉ do một người thực hiện. Tôi may mắn được làm việc cùng một nhóm nghiên cứu được tổ chức chuyên nghiệp, chuẩn mực, chất lượng và đầy nhiệt huyết. Các thành viên có kỹ năng làm việc nhóm, có sự phối hợp đồng bộ, mỗi người làm đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong nhóm, góp phần cho việc hoàn thành nghiên cứu và duy trì công bố khoa học đều đặn. Để có thể có những công bố trên các tạp chí chuyên ngành uy tín, nghiên cứu cần phải có phẩm chất khoa học cao, vấn đề nghiên cứu có tính thời sự, kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn và cuối cùng, bài báo khoa học cần được trình bày đúng chuẩn mực về nội dung và hình thức. Tất cả những điều này đều cần phải được đầu tư, rèn luyện và thực hiện trong nhiều năm. Thật ra, công bố khoa học, đặc biệt trên các tạp chí có chỉ số tác động cao, chỉ minh chứng cho chất lượng, tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu và phương pháp tiến hành nghiên cứu chuẩn mực. Theo tôi, vấn đề cần quan tâm khi thực hiện nghiên cứu là kết quả của nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn thì giúp ích được điều gì. Nghiên cứu xong mà đem cất vào tủ là những nghiên cứu không hiệu quả, tốn kém nguồn lực. Ngoài ra, nghiên cứu phải có tính khách quan, phải có thể lặp lại được. Không thể nói là nghiên cứu này chỉ có một mình mình làm được, không ai khác làm được nữa, như vậy có vẻ đó chỉ là một biến cố xảy ra tình cờ, do cơ hội, mà không phải là nghiên cứu lâm sàng và phục vụ cho điều trị lâm sàng. Nghiên cứu khoa học và công bố khoa học là một trong những nhiệm vụ của một người làm trong ngành Y. Nghiên cứu khoa học trong ngành Y giúp tìm ra các cơ chế gây bệnh, diễn biến của bệnh, phương cách điều trị bệnh hiệu quả và những kiến thức khác nữa về bệnh. Kết quả của những nghiên cứu cần được công bố, ngay cả là kết quả âm tính, bởi vì nó là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo hoặc được ứng dụng để cải thiện hiệu quả điều trị. Nhiều người, nhiều nơi trên thế giới làm nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu của mình trên y văn thế giới một cách liên tục…, từ đó kiến thức y học được tích lũy, tổng hợp; dẫn đến các phát kiến và cải tiến trong thực hành y khoa. Đó là cách mà y học thế giới phát triển trong hàng trăm năm qua. Từ trước đến nay, Việt Nam ta hầu như chỉ sử dụng các kiến thức từ thế giới. Hiện nay, chúng ta bắt đầu đóng góp kiến thức và từng bước góp phần thay đổi thực hành y khoa thế giới. PV: Được biết, hầu như chị chỉ học ở trong nước (chỉ đi học Thạc sĩ ở nước ngoài năm 1998-1999 tại Singapore), nhưng vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng kể được nước ngoài công nhận (có nhiều công trình đăng trên các tạp chí khoa học uy tín, chủ tọa nhiều hội nghị y học...). Vì sao chị lại không chọn con đường du học như nhiều người khác và chị có nghĩ là bạn trẻ, nếu có điều kiện, nên du học nước ngoài? PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Theo tôi, điều quan trọng chúng ta cần xác định không phải là học ở nước ngoài hay học trong nước, mà chính là mục tiêu chúng ta học để làm gì, định hướng phát triển nghề nghiệp ra sao, còn học ở đâu chỉ là phương cách để đạt được mục tiêu, theo đúng định hướng của mình. Đi học nước ngoài hay học trong nước, mỗi cách có ưu và nhược điểm riêng. Ngoài các vấn đề liên quan đến cá nhân, đi học nước ngoài giúp chúng ta có cách suy nghĩ, tiếp cận đa chiều đối với một vấn đề; hiểu biết và thích ứng với sự khác biệt về văn hóa và có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với các nhân vật lớn để học từ họ. Tuy nhiên, ngay cả khi đi học nước ngoài, không phải ai cũng có điều kiện và khả năng để làm được những điều như trên. Ngoài ra, khi học nước ngoài về, không phải lúc nào cũng áp dụng được những điều mình học vào thực tế ở Việt Nam. Học trong nước thì điều kiện khó khăn hơn, tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam ngày càng phát triển. Thế giới ngày nay là “thế giới phẳng”, do đó, không nhất định phải ở nước ngoài thì mới có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với cái hay, cái mới. Hơn nữa, ở tại Việt Nam, chúng ta sẽ hiểu biết điều kiện của Việt Nam, hiểu biết hệ thống y tế của Việt Nam, việc áp dụng những điều học được vào thực hành sẽ tốt hơn, sát thực tế hơn. Tóm lại, nỗ lực học tập (có thể trong hay ngoài nước), tiếp cận sự hỗ trợ của chuyên gia (trong và ngoài nước), tận dụng công nghệ tiên tiến, tin vào bản thân và tổ chức của mình, bền bỉ rèn luyện và nắm bắt cơ hội… đó là các yếu tố giúp đạt được mục tiêu phát triển của bản thân mình. Tôi học Thạc sĩ Phôi học lâm sàng 1998-1999 tại Khoa Y, Đại học Quốc gia Singapore. Khóa học này đào tạo các chuyên gia thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Singapore là quốc gia đầu tiên của Châu Á thành công TTTON vào năm 1983. Khi tôi đi học, chúng tôi mới thực hiện được 74 ca TTTON đầu tiên ở Việt Nam, với sự hỗ trợ của các chuyên gia ở Nice, Pháp. Khóa học này giúp tôi có được các kiến thức nền tảng cơ bản về TTTON. Sau đó, việc tiếp tục phát triển chuyên ngành TTTON ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế là chúng tôi tự mày mò cách làm trong thời gian làm việc ở Việt Nam. Lần đầu tiên tôi có bài báo cáo tại Hội nghị chuyên ngành quốc tế là vào năm 2001 tại Lausanne, Thụy Sĩ. Thông qua những lần báo cáo hội nghị, bài công bố quốc tế, chúng tôi có dịp tiếp xúc với các chuyên gia, cộng tác cùng với họ, dần dần hiểu biết nhiều hơn về cách làm và hệ thống công bố khoa học của thế giới. Từ đó, chúng tôi vừa học, vừa làm nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Hiện tại, sau khi chúng tôi có nhiều bài báo công bố trên các tập san khoa học uy tín và nhiều bài báo cáo tại các diễn đàn khoa học thế giới và khu vực; nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới đã liên hệ muốn hợp tác cùng chúng tôi, bao gồm các trung tâm nghiên cứu thuộc các trường đại học lớn ở Châu Âu, Châu Á, Mỹ, Australia. PV: Chị vừa thành công trong sự nghiệp vừa có một gia đình hạnh phúc. Bí quyết của chị là gì vậy ạ? PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Tôn trọng, chia sẻ và đồng lòng của các thành viên trong gia đình. Cả gia đình chúng tôi đều rất bận. Tuy nhiên, cả nhà cố gắng giữ nếp là ăn tối cùng nhau để chia sẻ với nhau những chuyện xảy ra trong ngày, những suy nghĩ, những băn khoăn… Vì cùng làm chung ngành nên bữa cơm gia đình hầu như cũng thường bàn bạc về chuyên môn, như buổi giao ban vậy!. Tuy bận rộn, nhưng chúng tôi luôn ưu tiên lắng nghe những việc của con cái, giải đáp những thắc mắc của con, có thể bất kỳ lúc nào, khi con nhắn tin, gọi điện… Với con gái đang học ngành Y, tôi dành thời gian tập cho cháu viết bài về các chủ đề khoa học. Nêu gương cũng là một cách giáo dục tốt. Chúng tôi đọc sách, viết bài, nghiên cứu… thì các con cũng tập tành như vậy. PV: Vâng, nhưng một phụ nữ vừa làm chuyên môn vừa quản lý, vừa nghiên cứu, giảng dạy... chắc chắn là vất vả và thiếu thời gian, chị có thu xếp được để thường xuyên đi du lịch hay thoả mãn sở thích của mình? PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Thật vậy, có lúc tôi ước mong một ngày của mình có hơn 24 tiếng đồng hồ để có thể chu toàn các công việc. Sở thích của tôi là đọc sách, do vậy, tôi có thể tranh thủ đọc bất cứ lúc nào. Những lúc đi công tác xa trở về, thời gian ngồi trên máy bay là khoảng thời gian tôi “tự thưởng” cho mình được đọc sách truyện, tiểu thuyết…mà không phải là sách về chuyên môn, giáo dục… Đi du lịch thì mỗi năm, cả nhà cũng cố gắng thu xếp đi cùng nhau 1-2 lần. Tôi nghĩ những lần du lịch thế này rất cần thiết để gắn kết các thành viên trong gia đình. Đối với tôi, công việc, con cái và gia đình đều quan trọng như nhau. Mà đã là quan trọng thì phải dành thời gian cho nó, chỉ là lúc nào cần tập trung nhiều hơn cho việc nào mà thôi. Các thành viên trong gia đình đều hiểu công việc của nhau, thông cảm, chia sẻ với nhau các công việc sẽ giúp cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc. #PGS.TS.BS_Vương_Thị_Ngọc_Lan:_Nghiên_cứu_khoa_học_là_nhiệm_vụ_của_người_làm_trong_ngành_Y #Vinmec 5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á Nguồn: https://www.ninhthuan.gov.vn/chinhquyen/sokhcn/Pages/5-nha-khoa-hoc-Viet-lot-top-100-chau-A.aspx https://www.caobang.gov.vn/ubnd/4/469/77285/783883/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi/5-nha-khoa-hoc-viet-lot-top-100-nha-khoa-hoc-chau-a-co-thanh-tuu-nghien-cuu-nhung-van-de-cap-bac.aspx https://ump.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-tuc/pgstsbs-vuong-thi-ngoc-lan-lot-vao-top-100-nha-khoa-hoc-chau-a/3024
Back to Blog
"Khi thụ tinh trong ống nghiệm, việc chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương với chuyển phôi tươi", nghiên cứu minh chứng do PGS Vương Thị Ngọc Lan thực hiện. PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan, 49 tuổi, là nhà khoa học nữ duy nhất có công trình nghiên cứu được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Trải qua 23 năm nghiên cứu kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), chị và đồng nghiệp đã thành công khi chứng minh với thế giới về khả năng thực hiện kỹ thuật này của Việt Nam. 23 năm trước, tốt nghiệp Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, cô nữ sinh tên Lan nhận công việc tại Khoa Sinh, Bệnh viện Từ Dũ. Khi đó kỹ thuật IVF còn xa lạ với Việt Nam, bệnh viện đã mời đoàn chuyên gia từ Pháp sang để thực hiện kỹ thuật IVF đầu tiên. Là con gái Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Giám đốc bệnh viện Từ Dũ lúc bấy giờ, chị Lan thường phụ mẹ chuẩn bị hồ sơ bệnh nhân, xét nghiệm, cho tiêm kích thích buồng trứng. "Khi chuyên gia muốn nắm thông tin quá trình theo dõi người bệnh trước khi thực hiện chọc hút buồng trứng lấy noãn, tôi được gọi vào trình bày. Cơ duyên tham gia IVF đến với tôi từ đó", chị kể. Muốn đi sâu vào kỹ thuật IVF nhưng Việt Nam khi đó chưa có nơi nào đào tạo và nghiên cứu về lĩnh vực này, chị quyết định ra nước ngoài tìm hiểu thêm về IVF với hy vọng mang kỹ thuật về Việt Nam. Sau hai năm theo học tại Đại học Quốc Gia Singapore, chị về nước, cùng cộng sự nghiên cứu và điều chỉnh nhiều công đoạn thực hiện IVF phù hợp với Việt Nam.
Việt Nam là cái tên xa lạ về kỹ thuật IVF trong con mắt các nhà chuyên môn thế giới. Không muốn giới nghiên cứu quốc tế đánh giá thấp, chị Lan cùng cộng sự quyết tâm với hơn 30 công bố được đăng trên tạp chí quốc tế. Trong đó câu hỏi nên sử dụng kỹ thuật chuyển phôi đông lạnh hay phôi tươi đã có câu trả lời từ kết quả nghiên cứu của nhóm: không cần thực hiện chuyển phôi tươi tất cả các bệnh nhân khi đi thụ tinh trong ống nghiệm. "Chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển một phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân", PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết. Công trình này khi được công bố quốc tế đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Người bệnh cũng nhờ đó được giảm chi phí hơn. Trước đó là kỹ thuật trưởng thành noãn non trong ống nghiệm cũng từng được nhiều hội nghị chuyên ngành lớn trên thế giới mời chuyên gia Việt Nam báo cáo, trao đổi kinh nghiệm. Bây giờ chị đảm nhiệm vai trò Trưởng bộ môn Phụ sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục theo đuổi nghiên cứu để chỉ ra giá trị điểm cắt nào của progesterone giúp các bác sỹ đưa ra quyết định chuyển phôi tươi hay đông lạnh, nên thực hiện nuôi cấy phôi ba ngày hay năm ngày, hiệu quả và chi phí như thế nào. Việt Nam hiện có hơn 10.000 ca thụ tinh ống nghiệm thành công. Trong ký ức TS Lan vẫn chưa quên những ngày đầu thực hiện kỹ thuật IVF. Đó là những ngày làm việc xuyên thời gian tại bệnh viện, đi đâu cũng mang theo hồ sơ bệnh nhân, thấp thỏm chờ kết quả phôi tốt không, bệnh nhân có thai không?. Và "Nếu không có trường hợp nào có thai, thì có lẽ thụ tinh trong ống nghiệm sẽ không thể duy trì được ở Việt Nam", chị Lan nói về tâm trạng lo lắng khi đó. Còn bây giờ đã có một số trung tâm nghiên quốc tế muốn hợp tác với Việt Nam trong giai đoạn tới. "Đây sẽ là điều kiện thuận lợi giúp ra đời các nghiên cứu IVF có giá trị", TS Lan nói. Ước tính cả thế giới mỗi năm có hơn 2 triệu cặp vợ chồng thực hiện IVF và có gần 3 triệu lượt chuyển phôi đông lạnh. Ở Việt Nam hiện nay mỗi năm có hơn 30.000 cặp vợ chồng thực hiện IVF và gần 40.000 trường hợp chuyển phôi đông lạnh. #Phó_giáo_sư_dành_hơn_20_năm_chỉ_ra_hiệu_quả_sử_dụng_phôi_đông_lạnh #Vinmec Phó giáo sư dành hơn 20 năm chỉ ra hiệu quả sử dụng phôi đông lạnh Nguồn: https://vnexpress.net/pho-giao-su-danh-hon-20-nam-chi-ra-hieu-qua-su-dung-phoi-dong-lanh-4098893.html Xem thêm: PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người làm trong ngành Y 5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á Giảng viên - bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan: Ước một ngày có hơn 24 giờ
Back to Blog
Vương Thị Ngọc Lan8/14/2021 Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) là một Bác sĩ y khoa, Phó Giáo sư-Tiến sĩ y học và là một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm. Bà là người đã giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Năm 1998 bà đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya vì công trình thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam.
Hiện tại, bà đang là Quyền Trưởng Khoa Y, kiêm Trưởng Bộ môn Phụ sản - Đại Học Y Dược TP. HCM. Xuất thân. Bà xuất thân trong một gia đình có truyền thống Y học, bà là con gái của Giáo sư-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc BV Từ Dũ, người có đóng góp to lớn đối với sự cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản cho người phụ nữ Việt Nam. Chồng bà là Thạc sĩ-Bác sĩ Hồ Mạnh Tường hiện là tổng thư ký Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP.HCM (HOSREM), nguyên là Trưởng khoa Hiếm muộn BV Từ Dũ và cũng đồng thời là một Bác sĩ hàng đầu trong lĩnh vực thụ tinh ống nghiệm. Quá trình nghiên cứu và đóng góp. Học Bác sĩ đa khoa khóa năm 1990 tại Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP.HCM (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch). Học Thạc sĩ y học chuyên ngành Phôi học lâm sàng tại Đại học Quốc gia Singapore. Bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ y học chuyên ngành Sản phụ khoa tại Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017. Bà cùng chồng là người đã giúp Việt Nam thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm vào năm 1998. Em bé sinh ra được đặt tên ghép từ vợ chồng bà vì sự đóng góp to lớn này nên bà đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya. Hỗ trợ phát triển kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và giúp xây dựng các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm khắp mọi miền đất nước: IVF Từ Dũ, IVF An Sinh, IVF Vạn Hạnh, IVF Mỹ Đức, IVF Huế, IVF Cần Thơ,.....Cũng nhờ việc phổ biến và phát triển phương pháp này mà đã có gần 10.000 trẻ được ra đời giúp cải thiện tình trạng hiếm muộn và vô sinh cho người Việt Nam. Bà cùng chồng bà là người đã xây dựng chương trình "Ươm mầm hạnh phúc" giúp điều trị miễn phí cho các trường hợp hiếm muộn nhưng kinh tế khó khăn, đây là chương trình được cả xã hội quan tâm và ủng hộ. #Vương_Thị_Ngọc_Lan #Vinmec Vương Thị Ngọc Lan Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng_Th%E1%BB%8B_Ng%E1%BB%8Dc_Lan Xem thêm: Phó giáo sư dành hơn 20 năm chỉ ra hiệu quả sử dụng phôi đông lạnh PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người làm trong ngành Y 5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á Giảng viên - bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan: Ước một ngày có hơn 24 giờ
Back to Blog
PGS.TS.BS. VƯƠNG THỊ NGỌC LAN
Các chuyên khoa: Sản phụ khoa Chức vụ: Bác sĩ, Thạc sĩ Tiến sĩ bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) là chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm. Hơn 10.000 đứa trẻ đã ra đời bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm với sự giúp đỡ của bà. Năm 1998, bà đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya vì công trình thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam. Bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan đã có nhiều đóng góp trong việc chữa hiếm muộn tại Việt Nam, giúp cho hàng ngàn cặp vợ chồng hoàn thành ước mơ là có được một gia đình trọn vẹn. Bà có nhiều công trình khoa học được công bố quốc tế. Năm 2020, công trình nghiên cứu của bà được đăng trên Tạp chí Y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) – một trong những tạp chí y khoa có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất trên thế giới. Với kết quả này, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan đã được vinh danh trong giải thưởng Tạ Quang Bửu – giải thưởng sáng giá nhất của khoa học Việt Nam. NƠI CÔNG TÁC HIỆN TẠI: Quyền Trưởng Khoa Y, kiêm Trưởng Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM QUÁ TRÌNH HỌC TẬP:
Phòng khám Bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan hoạt động từ năm 2005 đến nay, với sứ mệnh giúp cho hàng hàng ngàn phụ nữ trong khu vực và trên các địa bàn lân cận chữa hiếm muộn và các vấn đề về sản phụ khoa. Phòng khám Ngọc Lan – Chuyên sản phụ khoa và hiếm muộn Thông tin liên hệ Địa chỉ: 55/25-27 Lê Thị Hồng Gấm, P. Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TPHCM Điện thoại: (028) 2219 4473 – (028) 3821 3138 Hotline dịch vụ: 0961 090 499 Email: [email protected] Thời gian làm việc: Thứ 2 – Thứ 6: Sáng 7g30-11g00 – Chiều 13h30 – 19h00 Thứ 7: 13h30-19h00 #PGS.TS._BS._Vương_Thị_Ngọc_Lan_-_Hiếm_muộn_và_Sản_phụ_khoa #Vinmec PGS.TS. BS. Vương Thị Ngọc Lan - Hiếm muộn và Sản phụ khoa Nguồn: https://bsvuongthingoclan1971.blogspot.com/ Xem thêm: Vương Thị Ngọc Lan Phó giáo sư dành hơn 20 năm chỉ ra hiệu quả sử dụng phôi đông lạnh PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người làm trong ngành Y 5 nhà khoa học Việt lọt top 100 châu Á
Back to Blog
Đó là bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - hiệu trưởng Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM, nguyên giám đốc Bệnh viện Tai mũi họng TP. Bà là một trong những gương mặt tham dự Đại hội thi đua yêu nước TP.HCM lần thứ VI. Dù không còn làm việc tại Bệnh viện Tai mũi họng TP.HCM nhưng mỗi lần ngồi xem lại video clip những em bé bi bô tập nói, tập hát, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung vẫn nghe trong lòng trào dâng những cảm xúc khó tả. Đó là clip quay những bệnh nhân nhí được phẫu thuật cấy điện ốc tai mà các đồng nghiệp hay người nhà bệnh nhân gửi tặng bà. Với những đứa trẻ bị điếc bẩm sinh, hành trình để gọi về âm thanh, gọi về tiếng nói là một hành trình nhiều gian nan, nhiều âu lo, có cả tiếng cười và nước mắt. Hơn hai năm trôi qua rồi mà chị Thu Hà (ngụ đường Nguyễn Văn Cừ, Q.5, TP.HCM) vẫn chưa quên được cái ngày mà bác sĩ cho biết bé Bảo Hân con chị bị điếc bẩm sinh cả hai tai. Hồi bé 4 tháng tuổi, bà nội bé cứ thắc mắc sao mỗi khi gọi thì bé thường lơ đễnh không tập trung. Vợ chồng chị vẫn nghĩ tại con còn bé nên thế thôi. Mấy tháng nữa trôi qua, thấy tình hình không có gì khá hơn nên chị bồng con đi khám. “Bé tròn 9 tháng là lúc tôi đem con đến Bệnh viện Tai mũi họng. Nói thật, tôi có người nhà bên Úc, nếu đem con đi Úc phẫu thuật cũng được nhưng nghĩ đến quãng đường xa, rồi quá trình sau phẫu thuật phải đi lại rất nhiều lần, tôi quyết định làm tại Việt Nam bằng kỹ thuật cấy điện ốc tai”, chị Hà kể. Và rồi kết quả phẫu thuật đã chứng minh quyết định của chị không sai, bé Bảo Hân nghe được rồi, gọi được mẹ, ba. “Bây giờ bé hơn ba tuổi, lanh lợi, hoạt bát và nói chuyện như sáo”. Cùng tâm trạng như chị Hà, chị V., mẹ của bé N.Q., cũng từng vô cùng âu lo khi biết con mình không thể tiếp nhận âm thanh như những đứa trẻ bình thường. 27 tháng trôi qua kể từ ngày sinh con, hai vợ chồng chờ mãi không nghe tiếng con bi bô tập nói.
Duyên may, chị biết được Bệnh viện Tai mũi họng TP có thực hiện phẫu thuật đặt ốc tai để chữa điếc. “Âm thanh đầu tiên mà con phát ra là tiếng “ùm” - bé kêu lên khi đòi ăn. Nghe con “ùm” mà hai vợ chồng tôi ôm nhau khóc vì mừng quá” - chị V. kể. Chia sẻ về điều này, bác sĩ Dung nói: “Tôi quyết tâm theo đuổi, gắng hết sức để bệnh viện mình làm được phẫu thuật này là vì trước đây tôi từng là trưởng khoa nhi. Rất nhiều người cha, người mẹ chờ mong mãi không nghe con nói - chỉ nghĩ là bé bị câm thôi. Khi bác sĩ bảo “Tại bé điếc nên mới câm” thì lời chẩn đoán đó không khác gì lời tuyên án cho số phận của con mình. Họ sụp xuống, khóc xin bác sĩ cứu con. Người ta có thể bán đất bán nhà để cứu con - chỉ mong con nghe được âm thanh cuộc sống”. Bác sĩ Dung (lúc đó ở cương vị giám đốc Bệnh viện Tai mũi họng TP) quyết tâm cùng với ban lãnh đạo bệnh viện phát triển phẫu thuật “cấy điện ốc tai”, thực hiện quy trình khép kín từ khâu chẩn đoán, chỉ định đến phẫu thuật và luyện âm sau phẫu thuật. Cho đến nay Bệnh viện Tai mũi họng TP là đơn vị đầu tiên và gần như duy nhất trên cả nước thực hiện thường quy phương pháp phẫu thuật này bởi chính các phẫu thuật viên người Việt. “Ngay từ khi quyết định làm, chúng tôi cử người đi học, liên kết đào tạo để làm sao những chuyên viên của mình có thể tự lực cánh sinh thực hiện trọn quy trình bằng sức mình. Đến nay, điều tâm đắc nhất là đội ngũ y bác sĩ người Việt đã có thể tự đảm nhận toàn bộ quy trình “cấy điện ốc tai”. “Từ những năm đầu chỉ có một vài ca thì những năm sau này mỗi năm phẫu thuật cho gần 30 ca. Kể cả khi tôi rời bệnh viện, quy trình vẫn được tiến hành trọn vẹn. Một ca mổ ban đầu kéo dài 3 giờ, sau giảm còn 2 giờ rồi 1 giờ”, bác sĩ Dung kể. Bà cũng nhớ mãi ca phẫu thuật đầu tiên, khi bé được 3 tuổi, bác sĩ điều trị và chuyên viên luyện âm dẫn bé đến chào bà. Khi bé cất giọng bi bô: “Chào bác sĩ” rồi hát líu lo bài Cháu lên ba, bà đã khóc. Ba mẹ cháu bé và các bác sĩ có mặt ở đó cũng đều rơi nước mắt. Theo bác sĩ Dung, nếu so sánh chi phí phẫu thuật từ 30.000 - 60.000 USD/ca khi thực hiện ở nước ngoài và 15.000 - 30.000 USD/ca khi làm tại VN, người bệnh có thể tiết kiệm được khá nhiều. Chưa kể phẫu thuật trong nước còn tiết kiệm được chi phí đi lại nhiều lần để kiểm tra, điều chỉnh sau phẫu thuật. Nỗ lực tìm kiếm nguồn hỗ trợ Để có được chuyên viên âm ngữ trị liệu mà ở Việt Nam chưa từng đào tạo, bác sĩ Dung phải nỗ lực tìm kiếm sự hỗ trợ từ nước ngoài để đào tạo lực lượng này tại Việt Nam. Bà chủ động liên hệ với các chuyên viên âm ngữ trị liệu của Úc, cùng phối hợp thành lập tổ chức Trinh Foundation tài trợ cho việc tổ chức hai khóa đào tạo dài hạn chuyên viên âm ngữ trị liệu (2010-2012 và 2012-2014). Đến nay 36 học viên của hai khóa đã và đang nhân rộng kiến thức học được qua việc đào tạo lại và viết tư liệu hướng dẫn, làm nên những kỳ tích trong việc phục hồi chức năng nói và nuốt cho bệnh nhân. Những đóng góp của bác sĩ Dung và đội ngũ chuyên viên âm ngữ trị liệu đã được bệnh nhân và đồng nghiệp đánh giá cao và được phổ biến trong các hội nghị, hội thảo, các bài báo cáo khoa học. #Bác_sĩ_Nguyễn_Thị_Ngọc_Dung_-_Người_mang_lại_âm_thanh_cuộc_sống #Vinmec Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - Người mang lại âm thanh cuộc sống Nguồn: https://cafebiz.vn/nhan-vat/nguoi-mang-lai-am-thanh-cuoc-song-20150705095100601.chn Xem thêm: Tấm lòng từ mẫu PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung - Chuyên Tai Mũi Họng TPHCM PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp - Cổng thông tin Thành phố Hồ Chí Minh
Back to Blog
Ngày 29/08/2019, Bệnh Viện Tai Mũi Họng TP.HCM phối hợp cùng Viện Pasteur TPHCM tổ chức hội thảo chuyên đề “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” cho các bác sĩ của bệnh viện, các bác sĩ bệnh viện chuyên khoa tai mũi họng nhi và các bác sĩ ở các quận huyện trong thành phố. Phát biểu khai mạc tại buổi hội thảo, PGS.TS Trần Phan Chung Thủy – Giám đốc bệnh viện đã nhấn mạnh vai trò của việc tầm soát, phát hiện sớm và điều trị bệnh lý Pailloma thanh quản ở trẻ em. Đến với hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Dung – Nguyên Giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM, Phó Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam đã có bài báo cáo rất hay về cách phát hiện và chẩn đoán bệnh lý papilloma thanh quản ở trẻ em. Kết thúc Hội thảo, PGS.TS. Trần Phan Chung Thủy, Giám đốc bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM hy vọng sẽ hỗ trợ Viện Pasteur trong nghiên cứu để phát hiện sớm và điều trị thật tốt cho các bệnh nhi mắc phải bệnh lý này #Hội_thảo_“Phát_hiện,_chăm_sóc_và_điều_trị_papilloma_thanh_quản_ở_trẻ_em”_Bệnh_viện_Tai_Mũi_Họng_TPHCM
#Vinmec Hội thảo “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” - Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM Nguồn: https://taimuihongtphcm.vn/hoi-thao-phat-hien-cham-soc-va-dieu-tri-papilloma-thanh-quan-o-tre-em/ Xem thêm: Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - Người mang lại âm thanh cuộc sống Tấm lòng từ mẫu PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung - Chuyên Tai Mũi Họng TPHCM PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp - Cổng thông tin Thành phố Hồ Chí Minh
Back to Blog
Thầy thuốc Nhân dân - PGS-TS-BS chuyên khoa II Nguyễn Thị Ngọc Dung - Chủ tịch Hội Y học TP HCM, nguyên Giám đốc Bệnh viện (BV) Tai Mũi Họng TP HCM, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, nguyên Chủ tịch Hội Tai Mũi Họng Việt Nam - là người đóng góp rất nhiều cho ngành y tế, đặc biệt trong điều trị cho trẻ khuyết tật. Ba mảnh ghép thay đổi đời người Hiện nay, tại Phòng khám Đa khoa Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, BV Nhi Đồng 1 (TP HCM) áp dụng mô hình đặc biệt - âm ngữ trị liệu - để điều trị can thiệp, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, giao tiếp cho trẻ tự kỷ. Thống kê của BV Nhi Đồng 1 cho thấy sau 3 năm được can thiệp âm ngữ trị liệu, có tới 98% trẻ đủ tiêu chuẩn để vào học các trường dành cho trẻ khỏe mạnh. BS Nguyễn Thị Ngọc Dung là một trong những người tạo ra phép mầu đó cho trẻ tự kỷ. Bà dành tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết để thay đổi cuộc đời các em bằng mô hình đặc biệt này. BS Dung cũng chính là người áp dụng âm ngữ trị liệu để điều trị thành công cho trẻ điếc bẩm sinh. Y học hiện đại đem đến cho những trẻ này cơ hội thoát khỏi các thiệt thòi của một người khuyết tật, nhưng để làm được cần 3 mảnh ghép. Trong đó, mảnh ghép trung tâm là cấy điện ốc tai, một kỹ thuật được BS Dung biến thành thường quy ở BV Tai Mũi Họng TP HCM những năm bà làm giám đốc. Kỹ thuật cao này giúp những em điếc bẩm sinh có thể nghe lại được như người bình thường. Khoa Thanh học - Âm ngữ trị liệu đầu tiên của Việt Nam khánh thành năm 2002 tại BV Tai Mũi Họng TP HCM là mảnh ghép số 3, một giấc mơ nhen nhóm trong bà sau một lần tu nghiệp ở Pháp. Âm ngữ trị liệu giúp nhiều người bệnh tật, bị tai nạn làm ảnh hưởng khả năng nuốt, nói; trẻ tự kỷ, hở hàm ếch, rối loạn âm - lời nói; người sống tự ti nhiều năm vì giọng mái… tìm lại được cuộc sống bình thường.
Năm 2010, khóa đào tạo chuyên viên âm ngữ trị liệu đầu tiên được khai giảng ở Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch (TP HCM). Ngành học mới này càng được thúc đẩy trong những năm bà về làm hiệu trưởng ngôi trường này. Hiện nay, ngành học này đã hiện diện ở một số trường ĐH y khoa trên cả nước với bậc đại học và sau đại học. Âm ngữ trị liệu còn có một nhiệm vụ quan trọng là hoàn tất chặng đường cấy điện ốc tai. Mới cấy thôi thì âm thanh của cuộc sống vào tai trẻ vẫn là thứ âm thanh vô nghĩa. Cần âm ngữ trị liệu để bù đắp khoảng trống câm lặng mà trẻ đã thua thiệt từ khi mới sinh, trẻ mới dần theo kịp chúng bạn và hòa nhập được. Mảnh ghép thứ nhất còn thiếu là thính học. Đến tuổi hưu, bà rời cương vị hiệu trưởng nhưng vẫn đi tiếp chặng đường khoa học. "Với vai trò Chủ tịch Hội Y học TP HCM, tôi sẽ cố gắng hỗ trợ các hội thành viên phát triển những gì còn thiếu. Việt Nam chưa có cử nhân và kỹ thuật viên thính học, chưa có ngành đào tạo mà chỉ là một môn trong chương trình học của một số ngành khác. Như vậy chưa đủ" - bà tâm sự. Những cái bắt tay xuyên biên giới "PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung có mối quan hệ quốc tế rất tốt" - đó là lời nhận định của PGS-TS-BS Phạm Đăng Diệu, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, đồng nghiệp cũ của bà. Những năm BS Dung làm hiệu trưởng Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, đồng nghiệp và sinh viên của trường liên tục chứng kiến bà tiếp đoàn nước ngoài, để rồi những kiến thức, kỹ thuật mới được đưa đến học viên, những ký kết hợp tác mới được thực hiện. Song song đó là những đồng nghiệp trẻ được khuyến khích ra nước ngoài học tập. Theo bà, đẩy mạnh quan hệ quốc tế chính là chìa khóa để nền y học nước nhà phát triển mạnh. Những đóng góp trong quan hệ hợp tác quốc tế của vị nữ bác sĩ đáng kính được các đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao. GS-BS Imre Gerlinger - Trưởng Bộ môn Tai Mũi Họng Trường ĐH Y khoa Pécs (Hungary) - là người từng được BS Dung mời đến Việt Nam hợp tác huấn luyện kỹ năng phẫu thuật. Ông hoàn toàn bất ngờ khi được mời dạy ngay trên những xác hiến được bảo quản rất hiện đại. Ông đánh giá: "Tại nhiều trường y khoa trên thế giới, cơ hội thực hành trên thi hài người hiến vẫn còn thiếu, hầu hết phải làm trên các mô hình plastic mô phỏng. Thực hành trên một thi hài được bảo quản bằng kỹ thuật hiện đại nhất để tươi như người sống thế này quả là mơ ước của nhiều người học ngành y trên thế giới!". Với trẻ điếc bẩm sinh, BS Dung được ví như "bà tiên" của âm thanh. Còn với giới chuyên môn, bà là người dành trọn đam mê, tài năng cho nghiên cứu khoa học, vì sự nghiệp y khoa nước nhà. "PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung luôn là người tràn đầy năng lượng. Không những giỏi chuyên môn, nhạy bén, say mê nghiên cứu, bà còn là một lãnh đạo xuất sắc: không chỉ đứng đầu mà còn có khả năng tập hợp mọi người" - BS Phạm Đăng Diệu nói. #Những_“bàn_tay_vàng“_y_khoa:_“Bà_tiên“_của_thanh_âm #Vinmec Những “bàn tay vàng“ y khoa: “Bà tiên“ của thanh âm Nguồn: https://baogialai.com.vn/channel/1622/202006/nhung-ban-tay-vang-y-khoa-ba-tien-cua-thanh-am-5686430/ Xem thêm: Hội thảo “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” - Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCMBác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - Người mang lại âm thanh cuộc sốngTấm lòng từ mẫuPGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung - Chuyên Tai Mũi Họng TPHCM
Back to Blog
Trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung8/14/2021 (Thanhuytphcm.vn) - Trưa 10/4, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM phối hợp Tổng Lãnh sự quán Pháp tại TPHCM tổ chức lễ trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM. Đến dự có Phó Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TP Trần Hoàng Khánh Vân; Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani.
Phát biểu tại buổi lễ, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani bày tỏ rất vinh dự và vui mừng được trao tặng Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung. Đây là phần thưởng danh dự do tướng De Gaulle thành lập nhằm tôn vinh “sức mạnh sống” của Cộng hoà Pháp. “Huân chương ghi nhận sự cống hiến, năng động và gương mẫu của một sự nghiệp cá nhân. Và sự nghiệp của PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung thực sự là một tấm gương sáng.”- Tổng Lãnh sự Pháp Vincent Floreani nhấn mạnh. Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani cho biết: Trong hơn 20 năm, PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã tổ chức các hội thảo Pháp - Việt về Tai - mũi - họng và góp phần hình thành một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học Pháp ngữ tại TPHCM. Bên cạnh đó, PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung cũng giữ mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng khoa học Paris, đặc biệt là Bệnh viện Lariboisièr. PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung không ngừng đảm nhiệm những vị trí uy tín; và quảng bá hình ảnh nước Pháp và cộng đồng Pháp ngữ đến sinh viên. Theo Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani, nhờ vào những nỗ lực của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, tiếng Pháp tiếp tục được giảng dạy trong y khoa tại TPHCM. Tổng Lãnh sự Pháp Vincent Floreani cho rằng sự tiến bộ của khoa học là nhờ vào hợp tác, trao đổi và gặp gỡ. Chính sự cống hiến vừa chính trị và đạo đức nghề nghiệp của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã mang đến vinh dự được đón nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp. Nhân danh Tổng thống Cộng hòa Pháp, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani đã trao tặng Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM. Phát biểu tại buổi lễ, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM cảm ơn Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani đã quan tâm đề xuất cho bà được nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan”. PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung bày tỏ đây là phần thưởng bất ngờ vì những công trạng được nêu lên để nhận phần thưởng thì bà đã làm cho Nhân dân, đất nước Việt Nam nhiều hơn là đã làm được cho Nhân dân Pháp và nước Pháp. PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung cũng bày tỏ tri ân và biết ơn người thân, đồng nghiệp đã động viên hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi, để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong suốt quá trình học tập và làm việc gần 40 năm qua. Với vai trò Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung mong muốn Ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM tập hợp những người nói tiếng Pháp hoạt động trong lĩnh vực chính trị, văn hoá, y tế, giáo dục để cùng thực hiện hoạt động đối ngoại Nhân dân, giao lưu hữu nghị với cộng đồng Pháp trong và ngoài nước. Dịp này, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM cũng đã trao quyết định bổ nhiệm 2 Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM, gồm: Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Phó hiệu trưởng Điều hành Trường Y khoa Phạm Ngọc Thạch Nguyễn Thanh Hiệp và Viện trưởng Viện Trao đổi Văn hoá với Pháp (Idecaf) Nguyễn Ngọc Lan.
Back to Blog
(VOH) - PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung đã có ý kiến đóng góp về phần chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao sức khỏe cho người dân cả về tầm vóc, tinh thần, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống...Nhiều năm giữ cương vị Giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM, Hiệu trưởng Trường Y khoa Phạm Ngọc Thạch, PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung đã cùng đồng nghiệp có nhiều đóng góp cho ngành y tế trong điều trị cũng như trong việc đào tạo bác sĩ tương lai. Từ góc độ về chuyên môn của mình, bà Nguyễn Thị Ngọc Dung đã có ý kiến đóng góp về phần chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao sức khỏe cho người dân cả về tầm vóc, tinh thần, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ XI nhiệm kỳ 2020-2025:"Thứ nhất tôi xin góp ý văn kiện Đại hội Đảng bộ TP, phần nói về đến cuối năm 2025 đạt tỷ lệ 21 bác sĩ trên vạn dân và đạt 42 giường bệnh trên 1 vạn dân. Trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP nhiệm kỳ nào cũng đề cập đến phấn đấu tỷ lệ bác sĩ trên vạn dân. Khi làm ở trường đại học đào tạo, cũng như ở bệnh viện, thì tôi thấy nếu chỉ ghi vậy thôi thì chúng ta không đạt yêu cầu của TP, mà các bác sĩ ra trường chưa chắc được phân bố đều từ tuyến cơ sở, tuyến phường xã của TP. Do đó, tôi đề nghị có bổ sung thêm đến cuối năm 2025 đạt tỷ lệ 21 bác sĩ trên vạn dân và 42 giường bệnh trên vạn dân và phân bố đều từ tuyến y tế phường xã đến TP, như vậy thì sẽ rõ ràng hơn rất nhiều và khi đưa vào nghị quyết sẽ quyết tâm thực hiện.
Thứ hai về nâng cao sức khỏe cho người dân cả về tầm vóc, tinh thần, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống, ở đây chúng ta có đề cập đến phát triển bệnh viện TP trở thành trung tâm y tế chuyên sâu khu vực phía Nam và khu vực Đông Nam Á, hình thành trung tâm khám sức khỏe và tầm soát bệnh tật công nghệ cao, phát triển du lịch y tế thu hút khách trong và ngoài nước, tôi xin đóng góp ý kiến vì lý do hiện nay chúng ta có 2 loại bệnh viện đa khoa và chuyên khoa. Chúng ta không thể phát triển bệnh viện đa khoa thành bệnh viện chuyên sâu được. Do đó, tôi xin bổ sung ý kiến có thể ghi như vậy hay không? Bên cạnh các bệnh viện đa khoa và các trung tâm khám sức khỏe và tầm soát bằng công nghệ cao có thể trong bệnh viện đa khoa, nằm độc lập, phát triển các bệnh viện TP thành bệnh viện chuyên khoa đầu ngành của khu vực phía Nam và Đông Nam Á. Ý kiến đóng góp là đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của trạm y tế thực hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe. Điều này chúng ta đã nói rất nhiều, 5 năm, 10 năm và bây giờ là 15 năm. Nhưng điều này cho đến nay vẫn bất cập, bởi vì chúng ta chưa thực hiện tốt, chưa bảo đảm nguồn nhân lực tuyến y tế cơ sở, cũng như chưa bảo đảm chất lượng điều trị. Nguồn nhân lực ở đây là con người được phân công về và chất lượng điều trị, chúng ta bồi dưỡng những người về làm ở đó thế nào để nâng cao chất lượng chuyên môn, bảo đảm chất lượng điều trị. Do đó tôi đề nghị chúng ta bổ sung thêm 1 câu đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của trạm y tế, bảo đảm về nguồn nhân lực và chất lượng điều trị, thực hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, nếu chúng ta có quyết tâm như vậy thì sẽ làm tốt hơn. Thứ 3 về chủ động kiểm soát và ứng phó kịp thời với các dịch bệnh, triển khai có hiệu quả phong trào nâng cao sức khỏe nhân dân. Đặc biệt là câu nhân rộng mô hình truyền thông giáo dục sức khỏe trong cộng đồng, chúng ta thấy rằng trong thời dịch Covid-19 vừa qua, vấn đề truyền thông giáo dục sức khỏe trong cộng đồng rất tốt. Chính nhờ đó chúng ta đã thoát khỏi dịch một cách ngoạn mục. Do đó, tôi nghĩ rằng trong thời hậu Covid cũng như trong tương lai chúng ta sẽ tiếp tục phát triển mô hình truyền thông giáo dục sức khỏe. Bởi vì hiện nay hầu như vấn đề tự luyện tập sức khỏe là tự phát, cũng như vấn đề sức khỏe về tinh thần, có nghĩa là về phát triển và định hướng cho giới trẻ về tinh thần chưa có. Do đó, tôi đề nghị bổ sung, nhân rộng truyền thông, giáo dục sức khỏe trong cộng đồng, bảo đảm mỗi người dân đều được tiếp cận những thông tin về việc bảo vệ bản thân, về sức khỏe thể chất và tinh thần được đầy đủ hơn. #PGS-TS-Bác_sĩ_Nguyễn_Thị_Ngọc_Dung_góp_ý_văn_kiện_Đại_hội_Đảng_bộ_TPHCM_lần_thứ_XI #Vinmec PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung góp ý văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ XI Nguồn: https://voh.com.vn/xay-dung-dang/pgs-ts-bac-si-nguyen-thi-ngoc-dung-gop-y-van-kien-dai-hoi-dang-bo-tphcm-lan-thu-xi-368444.html Xem thêm: Những “bàn tay vàng“ y khoa: “Bà tiên“ của thanh âm Hội thảo “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” - Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - Người mang lại âm thanh cuộc sống Tấm lòng từ mẫu
Back to Blog
Ngày 10/4, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM, Hội hữu nghị Việt Nam - Pháp TPHCM và Tổng Lãnh sự quán Pháp tại TPHCM đã phối hợp tổ chức lễ trao Huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia Pháp tặng PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM. Phát biểu tại buổi lễ, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM, ông Vincent Floreani đánh giá cao quá trình học tập và công tác của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung. Ông Vincent Floreani khẳng định GS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung là người đã có phát kiến khoa học lớn, qua việc xác định mối liên hệ giữa sự tồn tại của một loại virus HPV ở người mẹ có thể lây truyền sang con và phát triển ở thanh quản. Bà đã có nhiều nỗ lực để ngày càng có nhiều hơn nghiên cứu sinh sau tiến sĩ và bác sĩ Pháp tới Việt Nam. Trong suốt 20 năm qua, bà Dung đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo Pháp – Việt về tai, mũi, họng, góp phần hình thành một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học Pháp ngữ tại TPHCM.
Năm 2013, GS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Bà đã nỗ lực quảng bá tiếng Pháp và cộng đồng Pháp ngữ tới sinh viên. Nhờ vào những nỗ lực của bà, tiếng Pháp tiếp tục được giảng dạy trong giới y khoa tại TPHCM. Phát biểu khi nhận huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia Pháp, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung bày tỏ lòng tri ân Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Hội Y học TPHCM, hội Hữu nghị Việt - Pháp TPHCM, tất cả đã đã động viên, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi, để trong suốt quá trình học tập và làm việc gần 40 năm qua, bà được phát huy khả năng giao tiếp với các đồng nghiệp và các người bạn Pháp, và đạt được những thành công cho bản thân, mang lại những thành quả hữu ích cho ngành y tế cũng như phát triển mối quan hệ hữu nghị Việt - Pháp. Với vai trò hiện nay là Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung mong muốn cùng với Ban chấp hành tập hợp những người nói tiếng Pháp và yêu tiếng Pháp hoạt động trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục để cùng thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân, giao lưu hữu nghị với cộng đồng Pháp trong và ngoài nước. Nhân dịp này, Hội hữu nghị Việt – Pháp TPHCM tổ chức tổng kết hoạt động năm 2020 và đề ra mục tiêu đẩy mạnh giao lưu hữu nghị với cộng đồng nói tiếng Pháp trong và ngoài nước. Để kiện toàn nhân sự, thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị đã quyết định bổ nhiệm 2 Phó Chủ tịch mới của Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM gồm: PGS.TS.BS Nguyễn Thanh Hiệp, Phó Chủ tịch Hội đồng Trường, Phó Hiệu trưởng Điều hành Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch; bà Nguyễn Ngọc Lan, Viện trưởng Viện Trao đổi văn hóa với Pháp (IDECAF) tại TPHCM. #Chủ_tịch_Hội_hữu_nghị_Việt_Pháp_TPHCM_được_trao_tặng_Huân_chương_Sĩ_quan_Công_trạng_quốc_gia_Pháp_Thời_Đại #Vinmec Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM được trao tặng Huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia Pháp | Thời Đại Nguồn: https://thoidai.com.vn/chu-tich-hoi-huu-nghi-viet-phap-tphcm-duoc-trao-tang-huan-chuong-si-quan-cong-trang-quoc-gia-phap-135868.html Xem thêm: PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung góp ý văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ XI Những “bàn tay vàng“ y khoa: “Bà tiên“ của thanh âm Hội thảo “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” - Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung - Người mang lại âm thanh cuộc sống
Back to Blog
Trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung8/14/2021 (Thanhuytphcm.vn) - Trưa 10/4, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM phối hợp Tổng Lãnh sự quán Pháp tại TPHCM tổ chức lễ trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM. Đến dự có Phó Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TP Trần Hoàng Khánh Vân; Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani Phát biểu tại buổi lễ, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani bày tỏ rất vinh dự và vui mừng được trao tặng Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung. Đây là phần thưởng danh dự do tướng De Gaulle thành lập nhằm tôn vinh “sức mạnh sống” của Cộng hoà Pháp. “Huân chương ghi nhận sự cống hiến, năng động và gương mẫu của một sự nghiệp cá nhân. Và sự nghiệp của PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung thực sự là một tấm gương sáng.”- Tổng Lãnh sự Pháp Vincent Floreani nhấn mạnh. Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani cho biết: Trong hơn 20 năm, PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã tổ chức các hội thảo Pháp - Việt về Tai - mũi - họng và góp phần hình thành một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học Pháp ngữ tại TPHCM. Bên cạnh đó, PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung cũng giữ mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng khoa học Paris, đặc biệt là Bệnh viện Lariboisièr. PGS Nguyễn Thị Ngọc Dung không ngừng đảm nhiệm những vị trí uy tín; và quảng bá hình ảnh nước Pháp và cộng đồng Pháp ngữ đến sinh viên. Theo Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani, nhờ vào những nỗ lực của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, tiếng Pháp tiếp tục được giảng dạy trong y khoa tại TPHCM. Tổng Lãnh sự Pháp Vincent Floreani cho rằng sự tiến bộ của khoa học là nhờ vào hợp tác, trao đổi và gặp gỡ. Chính sự cống hiến vừa chính trị và đạo đức nghề nghiệp của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã mang đến vinh dự được đón nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp. Nhân danh Tổng thống Cộng hòa Pháp, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani đã trao tặng Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM. Phát biểu tại buổi lễ, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM cảm ơn Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM Vincent Floreani đã quan tâm đề xuất cho bà được nhận Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan”. PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung bày tỏ đây là phần thưởng bất ngờ vì những công trạng được nêu lên để nhận phần thưởng thì bà đã làm cho Nhân dân, đất nước Việt Nam nhiều hơn là đã làm được cho Nhân dân Pháp và nước Pháp.
PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung cũng bày tỏ tri ân và biết ơn người thân, đồng nghiệp đã động viên hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi, để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong suốt quá trình học tập và làm việc gần 40 năm qua. Với vai trò Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM, PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung mong muốn Ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM tập hợp những người nói tiếng Pháp hoạt động trong lĩnh vực chính trị, văn hoá, y tế, giáo dục để cùng thực hiện hoạt động đối ngoại Nhân dân, giao lưu hữu nghị với cộng đồng Pháp trong và ngoài nước. Dịp này, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TPHCM cũng đã trao quyết định bổ nhiệm 2 Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Pháp TPHCM, gồm: Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Phó hiệu trưởng Điều hành Trường Y khoa Phạm Ngọc Thạch Nguyễn Thanh Hiệp và Viện trưởng Viện Trao đổi Văn hoá với Pháp (Idecaf) Nguyễn Ngọc Lan. #Trao_Huân_chương_“Công_trạng_Quốc_gia_hạng_Sĩ_quan”_Pháp_cho_PGS.TS.BS_Nguyễn_Thị_Ngọc_Dung #Vinmec Trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung Nguồn: https://pnt.edu.vn/vi/hoat-dong-xa-hoi/trao-huan-chuong-cong-trang-quoc-gia-hang-si-quan-phap-cho-pgs-ts-bs-nguyen-thi-ngoc-dung Xem thêm: Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM được trao tặng Huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia Pháp | Thời Đại PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung góp ý văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ XI Trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung Những “bàn tay vàng“ y khoa: “Bà tiên“ của thanh âm Hội thảo “Phát hiện, chăm sóc và điều trị papilloma thanh quản ở trẻ em” - Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM
Back to Blog
Tại buổi lễ, ông Vincent Floreani, Tổng Lãnh sự Pháp tại TPHCM, phát biểu: "Huân chương ghi nhận sự cống hiến, năng động và gương mẫu của một sự nghiệp cá nhân và sự nghiệp của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung thực sự là một tấm gương sáng, đặc biệt trong phát triển hợp tác khoa học giữa Pháp và Việt Nam". PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã bày tỏ niềm hạnh phúc khi được nhân dân và chính phủ Pháp ghi nhận những đóng góp đối với ngành y tế Việt Nam như một đóng góp chung cho toàn cầu. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung là người đã có phát kiến khoa học lớn, qua việc xác định mối liên hệ giữa sự tồn tại của một loại virus HPV ở người mẹ có thể lây truyền sang con và phát triển ở thanh quản. Trong suốt 20 năm qua, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo Pháp - Việt về Tai - Mũi - Họng, góp phần hình thành một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học Pháp tại TPHCM.
Nhân dịp này, Hội Hữu nghị Việt - Pháp TPHCM cũng đã tổ chức tổng kết hoạt động năm 2020. Ban Chấp hành Hội đề ra mục tiêu tiếp tục tập hợp những người nói tiếng Pháp và yêu tiếng Pháp hoạt động trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục để cùng thực hiện tốt các hoạt động đối ngoại nhân dân, giao lưu hữu nghị với cộng đồng Pháp trong và ngoài nước. Để kiện toàn nhân sự, thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra, HUFO đã quyết định bổ nhiệm hai Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Pháp TPHCM. Đó là bà Nguyễn Ngọc Lan, Viện trưởng Viện trao đổi Văn hoá với Pháp (IDECAF) và PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Hiệp, Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Phó hiệu trưởng điều hành trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Trên cương vị Viện trưởng IDECAF từ năm 2012, bà Nguyễn Ngọc Lan đã có những đóng góp quan trọng trong hợp tác giữa Việt Nam với Pháp cũng như với các nước nói tiếng Pháp khác. Năm 2020, bà Nguyễn Ngọc Lan đã được chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Nghệ thuật và Văn học cấp Hiệp sĩ. PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Hiệp là đồng nghiệp, từng gắn bó với PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung tại bệnh viện Tai - Mũi - Họng TPHCM. Sau đó, ông về giảng dạy tại trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch và đón nhận ý tưởng triển khai của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung với vai trò cố vấn về Âm ngữ trị liệu. PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Hiệp là một trong những người đóng góp nhiều công sức cho ngành y tế TPHCM nói chung và trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch nói riêng. Mới đây, PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Hiệp đã được 100% cử tri nơi cư trú ở xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TPHCM giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XV. #Pháp_trao_Huân_chương_Sĩ_quan_Công_trạng_quốc_gia_cho_PGS.TS_Nguyễn_Thị_Ngọc_Dung_Cổng_Thông_Tin_Hội_Liên_hiệp_Phụ_nữ_Việt_Nam #Vinmec >Pháp trao Huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia cho PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dung - Cổng Thông Tin Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguồn: https://hoilhpn.org.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/phap-trao-huan-chuong-si-quan-cong-trang-quoc-gia-cho-pgs-ts-nguyen-thi-ngoc-dung-36023-5.html Xem thêm: Trao Huân chương “Công trạng Quốc gia hạng Sĩ quan” Pháp cho PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Dung Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Pháp TPHCM được trao tặng Huân chương Sĩ quan Công trạng quốc gia Pháp | Thời Đại PGS-TS-Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung góp ý văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ XI Những “bàn tay vàng“ y khoa: “Bà tiên“ của thanh âm |